Quyền tác giả là một trong những lĩnh vực pháp lý quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của những người sáng tạo. Tuy nhiên, để cân bằng giữa lợi ích của tác giả và quyền lợi của xã hội, pháp luật đã có những quy định về giới hạn quyền tác giả. Vậy pháp luật quy định như thế nào? Hãy theo dõi bài viết của VCD dưới đây.

1. Khái niệm về giới hạn quyền tác giả

Mỗi tác phẩm ra đời, người tạo ra tác phẩm đó hay còn gọi là tác giả sẽ được pháp luật trao cho một số quyền hạn nhất định và đó sẽ là công cụ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ trước sự xâm phạm của các chủ thể khác trong xã hội.

Giới hạn quyền tác giả có thể hiểu dưới một số khía cạnh sau:

Thứ nhất, giới hạn về không gian: Quyền tác giả mang tính lãnh thổ có nghĩa là quyền tác giả phát sinh theo pháp luật của nước nào thì chỉ có hiệu lực trong phạm vi pãnh thổ của nước đó. Tác phẩm được bảo hộ ở quốc gia này không đồng nghĩa với việc mặc nhiên được bảo hộ ở quốc gia khác. Do đó, phạm vi bảo hộ tác phẩm sẽ được mở rộng đối với tất cả các quốc gia thanh viên khi họ tham gia điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ.

Thứ hai, giới hạn vê thời hạn bảo hộ: quyền tác giả chỉ có thời hạn nhất định chứ khôn phải có thời hạn vĩnh viễn, mỗi đối tượng sẽ cso những thời hạn bảo hộ khác nhau.

Thứ ba, giới hạn về đối tượng không được bảo hộ: không phải tất cả các đối tượng đều được bảo hộ theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ. Các đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả bao gồm: tin tức thời sự thuần túy đưa tin, văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, những đối tượng sở hữu trí tuệ có nội dung trái với đạo đức xã hội, trật tự công cộng, có hại cho quốc phòng an ninh,…

Thứ tư, giới hạn về nội dung bảo hộ: giới hạn quyền tác giả có thể bị hạn chế trong những trường hợp người khác có thể sử dụng tác phẩm mà không phải xin phép chủ sở hữu quyền tác giả, thâm chid không phải trả những lợi ích vật chất với những lý do chính đáng của ciệc sử dụng dựa trên các yếu tố như bản chất và mục đích sử dụng, phạm vi và ảnh hưởng của việc sử dụng,….

Như vậy, có thể hiểu giới hạn quyền tác giả là việc cho phép người khác khai thác, sử dụng tác phẩm mà không phải xin phép chủ sở hữu quyền tác giả, có thể không phải trả các lợi ích vật chất và việc khai thác sử dụng phải đảm bảo trong phạm vi nhất định với những lý do chính đán, những ddiefu kiện thỏa đáng mà không ảnh hưởng đến tác giả.

2. Nguyên tác giới hạn quyền tác giả

Nguyên tác khuyến khích sáng tạo: Theo Điều 40 Hiến pháp 2013 quy định “Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và cong nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó”. Do đó để phát huy khả năng của các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học cũng như đảm bảo vai trò của khoa học công nghệ, văn học, nghệ thuật trên thực tế thì hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam khi xây dựng các quy định về giới hạn quyền cũng cần lưu ý và tuân thủ theo tinh thần và quy định của Hiến pháp sao cho đảm bảo quyền nghiên cứu, sáng tạo của tác giả.

Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng: Điều 16 Hiến pháp 2013 quy định: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Pháp luật sở hữu trí tuệ cũng căn cứ theo nguyên tắc này. Tuy nhiên, nguyên tắc này không được áp dungjtrong mọi trường hợp, quyền sở hữu trí tuệ của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả sẽ bị giới hạn trong một số trường hợp liên quan đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng hay quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân tổ chức khác.

Nguyên tắc tự định đoạt: Quyền sở hữu trí tuệ là một loại quyền dân sự đặc biệt. Trong pháp luật sở hữu trí tuệ thì nguyên tắc tự định đoạt đucợ thể hiện thông qua việc mỗi cá nhân đều có quyền tự do sáng tạo và tự do thực hiện các giao dịch liên quan tới tài sản trí tuệ thuộc sở hữu của mình.

Nguyên tắc cân bằng lợi ích: đảm bảo sự bình đẳng của các chủ thể trong phân chia các lợi ích thu được từ đối tượng sở hữu trí tuệ. Sự cân bằng lợi ích trong các mối quan hệ pháp luật thể hiện tập trung thông qua sự cân bằng lợi ích giữa chủ hữu đối tượng sở hữu trí tuệ với cộng đồng.

Quy định của pháp luật về giới hạn quyền tác giả

3. Cơ sở giới hạn quyền tác giả

Theo khoản 2 Điều 4 Hiếp pháp Việt Nam 2013 quy định: Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.

Luật sở hữu trí tuệ tại khoản 3 Điểu 7 cũng khẳng định nguyên tắc giới hạn quyền như sau: Trong trường hợp nhằm bảo đảm mục tiêu quốc phòng, an ninh, dân sinh và các lợi ích khác của Nhà nước, xã hội quy định tại Luật này, Nhà nước có quyền cấm hoặc hạn chế chủ thể quyền sở hữu trí tuệ thực hiện quyền của mình hoặc buộc chủ thể quyền sở hữu trí tuệ phải cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng một hoặc một số quyền của mình với những điều kiện phù hợp; việc giới hạn quyền đối với sáng chế thuộc bí mật nhà nước được thực hiện theo quy định của Chính phủ.

Như vậy, hạn chế quyền là việc cần thiết của nhà nước bảo đảm quyền của chủ thể này không xâm phạm tới quyền của chủ thể khác, hay có thể hiểu bảo vệ phạm vi tự do chính đáng của người này cũng chính là hạn chế tự do của người khác, điều này hướng tới việc bảo đảm cho mỗi cá nhân có thể tự do thực hiện quyền của mình nhưng miễn là không thuộc nhữn phần bị “hạn chế”. Các quyền tự do ở đây là “tự do trong khuôn khổ” chứ không phải là “tự do tuyệt đối”.

Trong pháp luật sở hữu trí tuệ, các quy định về giới hạn quyền ra đời nhằm bảo đảm cho chủ thể quyền tác giả và xã hội đều được hưởng những lợi ích một cách xứng đáng, hài hòa, hợp lý nhất, đảm bảo không bên nào được hưởng lợi ích quá mức, xâm phạm đến lợi ích chính đáng của bên kia.

Trên đây là bài viết “Quy định của pháp luật về giới hạn quyền tác giả ”mà VCD gửi đếbạn. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,