Tác giả không chỉ là người sáng tạo ra tác phẩm, mà còn là người gắn bó sâu sắc với những giá trị mà tác phẩm thể hiện. Quyền nhân thân của tác giả, bao gồm quyền được ghi danh và bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ danh dự và uy tín của người sáng tạo. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là liệu quyền này có thể được chuyển nhượng hay không?. Bài viết của VCD dưới đây sẽ giúp bạn.

1. Quyền nhân thân là gì?

Xét theo khía cạnh pháp luật, nhân thân là một trong những quyền dân sự gắn liền với bản thân mỗi người. Nhân thân được hình thành, phát sinh, thay đổi và chấm dứt thông qua các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các ví dụ điển hình bao gồm việc khai sinh, kết hôn, khai tử, xác định quốc tịch, cũng như các quan hệ như cha con, vợ chồng, họ tên, quê quán và dân tộc.

Quyền nhân thân là một khái niệm quen thuộc, được áp dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Pháp luật cũng đã quy định rõ ràng về quyền này. Cụ thể, theo khoản 1 Điều 25 Bộ luật Dân sự 2015, quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân và không thể chuyển nhượng cho người khác, trừ khi có quy định khác trong luật liên quan.

Quyền nhân thân được thể hiện qua các đặc điểm cơ bản sau:

  • Bộ phận của quyền dân sự: Quyền nhân thân là một phần của quyền dân sự và thuộc về cá nhân.
  • Giá trị tinh thần: Quyền nhân thân luôn hướng tới những giá trị tinh thần không thể định giá.
  • Không thể chuyển nhượng: Quyền nhân thân không thể chuyển giao cho người khác.
Quyền nhân thân của tác giả có được chuyển giao hay không

2. Quyền nhân thân của tác giả có được chuyển giao hay không?

Pháp luật sở hữu trí tuệ 2022 tại Điều 19 quy định về quyền nhân thân của tác giả bao gồm:

Quyền nhân thân bao gồm:

1. Đặt tên cho tác phẩm.

Tác giả có quyền chuyển quyền sử dụng quyền đặt tên tác phẩm cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao quyền tài sản quy định tại khoản 1 Điều 20 của Luật này;

2. Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;

3. Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;

4. Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc; không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

Chuyển giao, hay còn gọi là chuyển nhượng quyền tác giả, được hiểu là việc chủ sở hữu quyền tác giả đồng ý chuyển giao quyền công bố tác phẩm và quyền tài sản cho tổ chức hoặc cá nhân khác thông qua hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật có liên quan (Khoản 1 Điều 45 Luật Sở hữu trí tuệ). Bên canh đó, Khoản 2 Điều 45 Luật Sở hữu trí tuệ quy định rằng: “Tác giả không được chuyển nhượng các quyền nhân thân quy định tại Điều 19, trừ quyền công bố tác phẩm; người biểu diễn không được chuyển nhượng các quyền nhân thân quy định tại khoản 2 Điều 29 của Luật này”.

Như vậy,  trong số các quyền nhân thân của quyền tác giả, chỉ có quyền công bố tác phẩm là có thể chuyển nhượng. Những quyền nhân thân khác vẫn giữ nguyên quyền lợi thuộc về tác giả và không được chuyển giao.

Cũng theo quy định này thì người biểu diễn cũng sẽ không được chuyển nhượng các quyền nhân thân quy định tại khoản 2 Điều 29 Luật này là:

  • Được giới thiệu tên khi biểu diễn, khi phát hành bản ghi âm, ghi hình, phát sóng cuộc biểu diễn;
  • Bảo vệ sự toàn vẹn hình tượng biểu diễn, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của người biểu diễn.

3. Quyền nhân thân được bảo hộ bao lâu?

Căn cứ theo Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 được sửa đổi bởi khoản 8 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2009 có quy định về thời hạn bảo hộ quyền nhân thân của tác giả như sau:

Quyền nhân thân được bảo hộ vô thời hạn:

  • Quyền đặt tên cho tác phẩm;
  • Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;
  • Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm.

Quyền nhân thân bảo hộ có thời hạn:

  • Tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên; đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình; đối với tác phẩm khuyết danh.
  • Trừ trường hợp tác phẩm không thuộc loại hình quy định tại trên có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết;
  • Thời hạn bảo hộ các tác phẩm trên chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả.

Trên đây là bài viết “Quyền nhân thân của tác giả có được chuyển giao hay không? mà VCD gửi đến bạn. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,