Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện đại, việc góp vốn vào doanh nghiệp ngày càng trở nên đa dạng và phong phú. Một trong những hình thức góp vốn đáng chú ý chính là việc sử dụng quyền tác giả như một tài sản góp vốn. Do đó, nhiều người đặt ra câu hỏi quyền tác giả có được phép đem góp vốn thành lập doanh nghiệp hay không? Bài viết của VCD dưới đây sẽ giúp bạn.

1. Quyền tác giả có phải là một loại tài sản không?

Dựa theo quy định tại Điều 105 của Bộ luật Dân sự 2015, tài sản được định nghĩa bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản, được phân loại thành bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai. Cũng theo Điều 115 của Bộ luật này, quyền tài sản được xác định là những quyền có thể được định giá bằng tiền, trong đó bao gồm quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.

Theo Khoản 1 Điều 4 của Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành quy định quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức hoặc cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.

Từ những quy định này, có thể khẳng định rằng quyền tác giả được công nhận như một loại tài sản. Qua đó, chủ sở hữu quyền tác giả có khả năng thu lợi từ những sáng tạo của mình, theo quy định của pháp luật hiện hành.

Có được phép góp vốn bằng quyền tác giả?

2. Có được phép góp vốn bằng quyền tác giả?

Theo Luật Doanh nghiệp năm 2020, việc góp vốn được hiểu là việc đóng góp tài sản để hình thành vốn điều lệ của công ty, bao gồm cả việc góp vốn để thành lập công ty mới hoặc tăng vốn điều lệ của công ty đã thành lập.

Quyền sở hữu trí tuệ, theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ hiện hành là quyền của tổ chức hoặc cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.

Tại Khoản 1 Điều 34 của Luật Doanh nghiệp 2020, tài sản góp vốn được xác định là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật và các tài sản khác có thể định giá bằng Đồng Việt Nam. Tuy nhiên phải lưu ý rằng chỉ những cá nhân hoặc tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp hoặc có quyền sử dụng hợp pháp đối với tài sản nêu trên mới có quyền sử dụng tài sản đó để góp vốn theo quy định của pháp luật.

Do đó, những cá nhân hay tổ chức sở hữu hợp pháp quyền sở hữu trí tuệ hoàn toàn có quyền sử dụng tài sản này để góp vốn. Góp vốn ở đây được hiểu là việc chuyển nhượng giá trị quyền sở hữu trí tuệ thông qua việc ghi nhận chủ sở hữu trên văn bằng bảo hộ và đưa quyền sở hữu này vào danh sách tài sản góp vốn của doanh nghiệp.

  • Điều kiện để quyền tài sản được góp vốn.

Tài sản là quyền sở hữu trí tuệ đã được đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được cấp văn bằng bảo hộ. Chỉ có chủ sở hữu, tức là người đứng tên trên văn bằng bảo hộ, mới có quyền sử dụng tài sản sở hữu trí tuệ này để góp vốn vào doanh nghiệp.

Theo Khoản 1 Điều 36, các tài sản góp vốn không phải là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi hoặc vàng phải được định giá bởi các thành viên, cổ đông sáng lập hoặc một tổ chức thẩm định giá, và giá trị phải được thể hiện bằng Đồng Việt Nam. Tài sản góp vốn khi thành lập doanh nghiệp cần được định giá theo nguyên tắc đồng thuận giữa các thành viên hoặc thông qua tổ chức thẩm định giá. Nếu tổ chức thẩm định giá được sử dụng, giá trị tài sản phải được hơn 50% các thành viên, cổ đông sáng lập chấp thuận.

Lưu ý: 

  • Nếu tài sản góp vốn được định giá cao hơn giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn, các thành viên, cổ đông sáng lập sẽ phải đồng liên đới góp thêm số chênh lệch giữa giá trị định giá và giá trị thực tế. Đồng thời, họ cũng sẽ phải chịu trách nhiệm về thiệt hại phát sinh do việc cố ý định giá tài sản cao hơn giá trị thực tế.
  • Việc góp vốn chỉ được coi là hoàn tất khi quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản góp vốn đã được chuyển giao cho công ty. Đối với các tài sản được sử dụng trong hoạt động kinh doanh của chủ doanh nghiệp tư nhân, không cần thiết phải thực hiện thủ tục chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp.
  • Ngoài ra, mọi hoạt động liên quan đến mua, bán, chuyển nhượng cổ phần và phần vốn góp, nhận cổ tức và chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của nhà đầu tư nước ngoài phải được thực hiện thông qua tài khoản theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối. Tuy nhiên, trường hợp thanh toán bằng tài sản hoặc hình thức khác không phải tiền mặt vẫn được chấp nhận.

Trên đây là bài viết “Có được phép góp vốn bằng quyền tác giả?” mà VCD gửi đến bạn. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,