Tác giả không đồng thời là chủ sở hữu có được công bố tác phẩm hay không?
Việc công bố tác phẩm là một trong những quyền quan trọng thuộc quyền nhân thân của tác giả theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, trong thực tế, không phải lúc nào tác giả cũng đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm của mình, đặc biệt là trong các trường hợp tác phẩm được sáng tạo theo hợp đồng thuê sáng tác hoặc theo nhiệm vụ được giao. Vấn đề đặt ra là: khi không còn giữ quyền sở hữu, liệu tác giả có còn quyền công bố tác phẩm hay không? bài viết của VCD dưới đây sẽ giúp bạn.
1. Công bố tác phẩm là gì?
Theo khoản 9 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi năm 2022, tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình được xem là đã công bố khi được phát hành với sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả hoặc quyền liên quan nhằm phổ biến đến công chúng các bản sao dưới bất kỳ hình thức nào, với số lượng hợp lý. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể về các hình thức công bố tác phẩm. Trong thực tiễn, việc công bố có thể được thực hiện thông qua nhiều cách khác nhau, tùy theo loại hình tác phẩm.
Đối với các tác phẩm viết như sách, truyện, tài liệu…, hình thức công bố phổ biến nhất là xuất bản. Tác phẩm có thể được phát hành dưới dạng sách in truyền thống hoặc sách điện tử, cho phép người đọc tiếp cận qua các thiết bị như điện thoại, máy tính bảng hay máy đọc sách.
Với các tác phẩm âm thanh và hình ảnh, việc công bố thường được thực hiện thông qua bản ghi âm và bản ghi hình. Các bản ghi này có thể được phát hành dưới dạng đĩa CD, DVD hoặc tệp kỹ thuật số và đăng tải trên các nền tảng trực tuyến như YouTube, Spotify…
Đối với các loại hình biểu diễn như âm nhạc, sân khấu, múa…, tác phẩm được công bố thông qua việc trình diễn trực tiếp trước công chúng tại các sân khấu, sự kiện hoặc không gian biểu diễn.
Riêng với các tác phẩm mỹ thuật, nhiếp ảnh, điêu khắc…, hình thức công bố phổ biến là triển lãm tức là trưng bày tác phẩm tại phòng tranh, bảo tàng hoặc các không gian công cộng.
2. Chủ thể có quyền công bố tác phẩm là ai?
Theo khoản 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2022 quy định quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình trực tiếp sáng tạo ra hoặc sở hữu hợp pháp.
Đối tượng của quyền tác giả bao gồm các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học. Bên cạnh đó, quyền liên quan đến quyền tác giả áp dụng đối với các đối tượng như cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng và tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa (theo khoản 1 Điều 3 Luật Sở hữu trí tuệ).
Ngoài ra đối chiếu theo khoản 3 Điều 14 Nghị định 17/2023/NĐ-CP, quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố là việc phát hành tác phẩm đến công chúng với số lượng bản sao hợp lý, nhằm đáp ứng nhu cầu tiếp cận của công chúng tùy theo tính chất của từng loại hình tác phẩm. Việc công bố này có thể do tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện, hoặc do cá nhân, tổ chức khác thực hiện nhưng phải có sự đồng ý của tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả.
Do vậy, chủ thể có quyền công bố tác phẩm là tác giả của tác phẩm hoặc người được tác giả (hoặc chủ sở hữu quyền tác giả) cho phép.
3. Tác giả không đồng thời là chủ sở hữu có được công bố tác phẩm hay không?
Theo quy định tại Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành tác giả được hưởng bốn quyền nhân thân đối với tác phẩm của mình. Bao gồm: quyền đặt tên cho tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; và quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm.
Tuy nhiên, không phải tất cả các quyền nhân thân đều là quyền không thể chuyển giao. Trên thực tế, chỉ ba quyền là không thể chuyển giao, bao gồm: quyền đặt tên cho tác phẩm (khoản 1), quyền đứng tên trên tác phẩm (khoản 2), và quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm (khoản 4). Riêng quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm (khoản 3) là quyền có thể chuyển giao cho chủ sở hữu quyền tác giả.
Do đó, trong trường hợp tác giả không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả, thì người này không còn quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm của mình. Quyền này khi đó thuộc về chủ sở hữu quyền tác giả – có thể là cá nhân, tổ chức hoặc doanh nghiệp – tùy theo thỏa thuận hoặc quy định pháp luật.
Vì vậy, tác giả chỉ có quyền công bố tác phẩm nếu đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả. Nếu không, việc công bố tác phẩm phải được sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả. Đây là nguyên tắc quan trọng nhằm phân định rạch ròi giữa quyền nhân thân không chuyển giao và quyền tài sản có thể chuyển giao trong hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ.
Trên đây là bài viết “Tác giả không đồng thời là chủ sở hữu có được công bố tác phẩm hay không?” mà VCD gửi đến bạn. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.
Trân trọng,