Hiện nay, môi trường kỹ thuật số không chỉ mở ra cơ hội cho sự sáng tạo mà còn tạo ra những lỗ hổng trong việc bảo vệ quyền lợi của tác giả. Từ âm nhạc, văn học cho đến các tác phẩm nghệ thuật, mọi thứ đều có thể được số hóa và lan tỏa chỉ trong chớp mắt. Tuy nhiên, chính sự dễ dàng này lại khiến cho việc xác định quyền sở hữu và bảo vệ tác phẩm trở nên phức tạp hơn bao giờ hết. Bài viết ” Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số” của VCD dưới đây sẽ giúp bạn.

1. Khái quát về môi trường kỹ thuật số

Kỹ thuật số được hiểu là quá trình liên quan đến việc biểu diễn, xử lý, lưu trữ và truyền thông tin bằng cách sử dụng các con số hoặc biểu tượng tương tự. Máy tính, điện thoại di động các thiết bị điện tử đều được sử dụng một hệ thốn gọi là nhị phân để xử lý thông tin.

Môi trường kỹ thuật số là môi trường truyền thông tích hợp nơi các thiết bị kỹ thuật số giao tiếp, quản lý nội dung và hoạt động. Hiện nay môi trường kỹ thuật số đã trở nên phổ biến và phủ sóng trong mọi lĩnh vực đời sống của con người từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,….

Trong môi trường kỹ thuật số, quyền tác giả vẫn được xem xét vào bảo hộ cùng với những đặc tính ban đầu của nó. Dù được thể hiện dưới dạng mã hóa kỹ thuật số, Quyền tác giả vẫn chỉ bảo hộ hình thức chứ không bảo hộ nội dung đồng thời quyền được bảo hộ xác lập ngay khi tác phậm được hình thành. Khác với các tác phẩm truyền thông có thể dễ dàng nhận biết dựa trên các giác quan thông thường, tác phẩm khi được đưa vào trong môi trường kỹ thuật số sẽ chỉ bao gồm tập hợp của các chuỗi số 0 và 1 và không có sự phân biệt về loại hình tác phẩm cho đến khi nó được giải mã đúng phương pháp.

Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số

2. Đặc điểm bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số

Thứ nhất, bảo hộ quyền tác giả là sự bảo hộ dành cho tác giả. Cơ sở để quyền tác giả được bảo vệ phải xuất phát ban đầu từ chính yếu tố về phái tác giả hay nói cách khác việc pháp luật quy định và bảo hộ các quyền pháp lý cụ thể đối với tác phẩm làm cho tác giả thự sự được hưởng các lợi ích vât chất và tinh thần có được từ tác phẩm chính là thông qua đó bảo hộ quyền tác giả.

Thứ hai, bảo hộ quyền tác giả là bảo hộ tự động. Các tác phẩm trong môi trường kỹ thuật số chỉ sau khi dược hình thành dưới một dạng hinhd thức nhất định có thể phân biệt được, thì tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả mới đương nhiên được hưởng các quyền tác giả đối với tác phẩm đó, đòng thời các quyền này được pháp luật ghi nhận và bảo hộ.

Thứ ba, bảo hộ quyền tác giả mang tính lãnh thổ. Sự phát triển của môi trường kỹ thuật số ranh giới lãnh thổ quốc gia trở nên khó xác định bởi vậy mà hầu hết các quốc gia đã xem xét đến tính chất của hành vi xâm phạm không còn là nơi xảy ra hành vi xâm phạm nữa mà dự trên đối tượng mà hành vi đó hướng tới. Hàn vi bị xem xét cũng bị coi là xảy ra tại nước nội tại nếu hành vi đó xảy ra trên môi trường viễn thông và mạng internet mà người tiêu dùng hoặc người khai thác, sử dụng nội dung thông tin số tại nước đó.

Thú tư, đối tượn được bảo hộ trong môi trường kỹ thuật số là những tác phẩm đặc thù được mã hóa hoặc được trực tiếp tạo ra dựa trên các thiết bị kỹ thuật số. Các dạng tác phẩm số này giúp các tác giả có thể phân phối đến người dủng với số lượng lớn, chi phí rẻ, …Các tác phẩm kỹ thuật số có thể tiếp cận tới người dùng một cách nhanh chóng dễ dàng bởi chúng mang những đặc điểm như gọn nhẹ, dễ nhân bản, lưu trữ trao đổi thông qua các thiết bị kỹ thuật số.

3. Đối tượng bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số

Sự ra đời của môi trường kỹ thuật số cho phép tác giả có thể thể hiện, lưu trữ, truyền tải các tác phẩm của mình dưới dạng hình thức vật chất nhất định như sách, báo, tranh, ảnh,… hoặc thông qua hình thức số hóa tác phẩm.

Đối tượng bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số được hiểu là tác phẩm hưng những tác phẩm đó được thể hiện dữ liệu dưới dạng số hóa với một vài hình thức truyền tải tác phẩm và cách thức bảo hộ đặc thù. Do đó, đối tượng bảo hộ quyền tac giaqr trong môi trường kỹ thuật số có thể xem xét dựa trên ba lĩnh vực: tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học.

Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành cũng đã cho chương trình máy tính và ưu tập dữ liệu vào đối tượng được bảo hộ tương tự như quy định tại Điều 4 và 5 Hiệp ước WCT. Tuy nhiên, có thể thấy quy định của pháp luật Việt Nam mới chỉ liệt kê ra các loại hình tồn tại chung của các phẩm mà chưa có quy định cụ thể nào cho các trường hợp tác phẩm tồn tại dưới dạng dữ liệu kỹ thuật số.

Tuy nhiên, có thể hiểu rằng đối tượng bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số là những tác phẩm được số hóa hoặc tồn tại dưới dạng các dữ liệu điện tử và sử dụng thể hiệ thông qua các thiết bị điện tử như máy tính, điện thoại, máy chiếu, … Theo đó các tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình, tác phẩm báo trí, tác phẩm âm nhạc có thể là những tác phẩm được số hóa để hoặc đối với các tác phẩm sân khấu, điện ảnh cần phải ghi âm, ghi hình để có thẻ sử dụng trong môi trường kỹ thuật số.

Trên đây là bài viết “Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số”mà VCD gửi đến bạn. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,