Cá nhân và tổ chức có được cùng đứng tên trong một Giấy chứng nhận bản quyền không?
Trong thực tiễn sáng tạo và khai thác tác phẩm, không ít trường hợp một cá nhân trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm nhưng quyền khai thác, sử dụng lại thuộc về một tổ chức. Từ mối quan hệ này, nhiều chủ thể đặt ra thắc mắc về cách thức ghi nhận tư cách pháp lý trên Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, đặc biệt là việc cá nhân và tổ chức có thể cùng đứng tên trong một giấy chứng nhận hay không. Bài viết của VCD dưới đây sẽ giúp bạn.
Phân biệt tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả?
Theo Điều 13 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2022), tác giả là cá nhân trực tiếp sáng tạo ra toàn bộ hoặc một phần tác phẩm bằng lao động trí tuệ của mình. Yếu tố “trực tiếp sáng tạo” là điều kiện cốt lõi để xác định tư cách tác giả. Do đó, pháp luật Việt Nam không công nhận tổ chức là tác giả, bởi tổ chức không thể thực hiện hành vi sáng tạo mang tính cá nhân.
Trong khi đó, chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức hoặc cá nhân nắm giữ quyền tài sản đối với tác phẩm. Chủ sở hữu có thể đồng thời là tác giả, hoặc là một chủ thể khác được xác lập quyền thông qua các căn cứ hợp pháp như: giao nhiệm vụ, hợp đồng lao động, hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, thừa kế hoặc theo quy định của pháp luật. Quy định này thể hiện rõ tại Điều 39 Luật Sở hữu trí tuệ, theo đó, đối với tác phẩm được sáng tạo theo nhiệm vụ do tổ chức giao hoặc theo hợp đồng lao động, thì tổ chức đó là chủ sở hữu quyền tác giả, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Như vậy có thể thấy rằng, tác giả gắn với quyền nhân thân, còn chủ sở hữu gắn với quyền tài sản, và hai tư cách này có thể thuộc về hai chủ thể khác nhau.

Giấy chứng nhận bản quyền tác giả là gì?
Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả là văn bản do Cục Bản quyền tác giả cấp theo yêu cầu của tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả. Căn cứ Điều 49 và Điều 53 Luật Sở hữu trí tuệ, Giấy chứng nhận không phải là điều kiện làm phát sinh quyền tác giả, nhưng là chứng cứ pháp lý quan trọng để chứng minh quyền khi có tranh chấp.
Nội dung của Giấy chứng nhận thể hiện các thông tin cơ bản như: tên tác phẩm, loại hình tác phẩm, ngày hoàn thành, tên tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và căn cứ xác lập quyền sở hữu. Việc ghi nhận này có ý nghĩa đặc biệt trong thực tiễn, bởi nó xác định rõ ai là người sáng tạo, ai là người có quyền khai thác, sử dụng tác phẩm, từ đó làm cơ sở cho việc chuyển giao, cấp phép hoặc bảo vệ quyền tác giả.
Cá nhân và tổ chức có được cùng đứng tên trong một Giấy chứng nhận bản quyền không?
Căn cứ các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ, cá nhân và tổ chức có thể cùng được ghi nhận trong một Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, nhưng việc đứng tên phải phản ánh đúng tư cách pháp lý của từng chủ thể và căn cứ xác lập quyền đối với tác phẩm.
Thứ nhất, trường hợp tác phẩm do cá nhân sáng tạo theo nhiệm vụ hoặc hợp đồng lao động với tổ chức:
Theo Điều 39 Luật Sở hữu trí tuệ, đối với tác phẩm được sáng tạo theo nhiệm vụ do tổ chức giao hoặc theo hợp đồng lao động, thì tổ chức là chủ sở hữu quyền tài sản, trừ khi các bên có thỏa thuận khác. Trong trường hợp này, cá nhân trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm vẫn được ghi nhận là tác giả, còn tổ chức được ghi nhận là chủ sở hữu quyền tác giả. Hai chủ thể này sẽ cùng xuất hiện trên Giấy chứng nhận, nhưng với tư cách pháp lý khác nhau.
Thứ hai, trường hợp cá nhân sáng tạo tác phẩm độc lập và sau đó chuyển nhượng quyền sở hữu cho tổ chức khác:
Theo Điều 45 và Điều 46 Luật Sở hữu trí tuệ, tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả có quyền chuyển nhượng quyền tài sản đối với tác phẩm cho tổ chức, cá nhân khác thông qua hợp đồng chuyển nhượng. Sau khi việc chuyển nhượng có hiệu lực, tổ chức nhận chuyển nhượng trở thành chủ sở hữu quyền tác giả, còn cá nhân sáng tạo vẫn được ghi nhận là tác giả và tiếp tục được bảo hộ các quyền nhân thân không thể chuyển giao (trừ quyền công bố tác phẩm nếu có thỏa thuận).
Trong trường hợp này, Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả sẽ ghi nhận cá nhân là tác giả và tổ chức nhận chuyển nhượng là chủ sở hữu quyền tác giả, kèm theo căn cứ xác lập quyền là hợp đồng chuyển nhượng hợp pháp.
Thứ ba, trường hợp cá nhân và tổ chức cùng đứng tên là đồng chủ sở hữu quyền tác giả:
Pháp luật cho phép nhiều chủ thể cùng là chủ sở hữu quyền tác giả nếu có căn cứ chứng minh việc đồng đầu tư, đồng thỏa thuận xác lập quyền tài sản đối với tác phẩm. Khi đó, Giấy chứng nhận sẽ ghi nhận đầy đủ các chủ sở hữu quyền tác giả. Tuy nhiên, việc sở hữu chung phải được thể hiện rõ bằng văn bản và được các bên thống nhất ngay từ đầu.
Ngoài ra, pháp luật không cho phép tổ chức đứng tên là tác giả hoặc đồng tác giả, bởi theo Điều 13 Luật Sở hữu trí tuệ, tác giả chỉ có thể là cá nhân trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm. Tổ chức cũng không thể cùng cá nhân đứng tên là đồng tác giả dưới bất kỳ hình thức nào.
Trên đây là bài viết “Cá nhân và tổ chức có được cùng đứng tên trong một Giấy chứng nhận bản quyền không?” mà VCD gửi đến bạn. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.
Trân trọng,
Câu hỏi thường gặp
Câu hỏi 1: Trong những trường hợp nào Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả thể hiện đồng thời tên cá nhân và tổ chức?
Trả lời: Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả thể hiện đồng thời tên cá nhân và tổ chức khi cá nhân là người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm, còn tổ chức là chủ thể nắm giữ quyền tài sản đối với tác phẩm theo thỏa thuận, quyết định giao việc hoặc hợp đồng chuyển nhượng hợp pháp.
Câu hỏi 2: Việc cá nhân chuyển giao quyền sở hữu tác phẩm cho tổ chức có làm thay đổi tư cách tác giả trên Giấy chứng nhận không?
Trả lời: Không. Việc chuyển giao quyền sở hữu chỉ làm thay đổi chủ thể chủ sở hữu quyền tác giả, còn tư cách tác giả của cá nhân vẫn được bảo lưu và ghi nhận trên Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả.