Quyền tác giả là một khía cạnh quan trọng trong lĩnh vực sáng tạo, bảo vệ những nỗ lực và công sức của những người tạo ra tác phẩm. Quyền tác giả không chỉ bảo vệ những nỗ lực đó mà còn xác định ai có quyền kiểm soát và khai thác các tác phẩm. Tuy nhiên, một câu hỏi thường đặt ra là: quyền tác giả thuộc về ai? Là tác giả trực tiếp thực hiện sáng tạo hay công ty?. Bài viết “Các trường hợp tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả độc lập với nhau” của VCD dưới đây sẽ giúp bạn.

  1. Xác định mối quan hệ giữa tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả?

Tác phẩm là kết tinh sức lao động sáng tạo của tác giả, do vậy các quyền của tác giả đối với tác phẩm được pháp luận ghi nhận và bảo hộ. Quyền tác giả đối với tác phẩm được coi là một quyền tài sản và nằm trong phạm vi các loại tài sản được quy định trong Bộ luật dân sự Việt Nam 2015.

Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ 2022 quy định quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm được phát sinh kể từ thời điểm tác phẩm được sáng tạo dưới hình thức và vật chất nhất định. Tác giả là người trực tiếp tạo ra tác phẩm còn chủ sở hữu quyền tác giả là cá nhân, tổ chức nắm giữ một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản quy định tại Khoản 3 Điều 19 và Khoản 1 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ.

Theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ một chủ thể nào đó chứng minh được mình đang có caqsc quyền tài sản thuộc quyền tác giả sẽ là chủ sở hữu của quyền tác giả. Một nguyên tắc chung, người sáng tạo ra tác phẩm là chủ sở hữu của tác phẩm trừ trường hợp có sự thỏa thuận khác.

Công ước Berne quy định cho pháp luật của mỗi nước thành viên quyết định ai là tác giả ai là chủ sở hữu quyền tác giả của tác phẩm. Theo Điều 15 Công ước này quy định một cá nhân hay một tổ chức có ghi tên trên tác phẩm theo thông lệ được xem là tác giả trừ khi có bằng chứng ngược lại trong trường hợp này tác giả và chủ sở hữu là một. Tuy nhiên, vẫn có những ngoại lệ nhất định để tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả là hai chủ thể độc lập và tách biệt.

Các trường hợp tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả độc lập với nhau

2. Các trường hợp tác giả và chủ sở hữu độc lập và tách biệt với nhau?

Một số trường hợp mà trong đó chủ sở hữu quyền tác giả không đồng thời là tác giả:

Tác phẩm được tạo ra theo nhiệm vụ được giao:

Trước hết giữa tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả tồn tại mối quan hệ thông qua Hợp đồng lao động được ký kết. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay về quyền tác giả thì pháp luật thừa nhận nguyên tắc chung là chủ sở hữu quyền tác giả chính là người sáng tạo ra tác phẩm tức là người lao động đã trực tiếp tại ra tác phẩm trừ trường hợp họ sáng tạo theo nhiệm vụ được giao. Việc giao nhiệm vụ sáng tạo tác phẩm phải được thê hiện bằng một văn bản cụ thể. Như vậy một tác phẩm được tạo ra theo nhiệm vụ đượ giao thì người sáng tạo ra tác phẩm đó vẫn được công nhận là tác giả nhưng chủ sở hữu quyền tác giả lại là cá nhân, cơ quan, tổ chức giao nhiệm vụ sáng tạo cho tác giả.

Tác phẩm được tạo ra thông qua hợp đồng thuê sáng tạo:

Khác với trường hợp trên tác giả sáng tạo ra tác phẩm là thành viên của một cơ quan, tổ chức giữa các bên có hình thành mối quan hệ lao động còn ở đây chỉ duy nhất có hợp đồng thuê sáng tạo được ký kết giữa các bên. Do đó, theo hợp đồng thuê sáng tạo tác giả sẽ tạo ra tác phẩm theo yêu cầu của chủ thể phía bên kia và được nhận một khoản tiền thù lao theo mức các bên thỏa thuận. Hệ thống pháp luật Việt Nam thừa nhận nguyên tắc người tạo ra tác phẩm trong hợp đồng thuê sáng tạo được ghi nhận là tác giả còn các quyền tài sản sẽ thuộc bên thuê sáng tạo hay bên giao việc nếu không có thỏa thuận khác.

Chuyển giao quyền tác giả:

Một trong những quyền của chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm là khai thác tác phẩm theo các cách thức khác nhau. Việc chuyển giao quyền tác giả của chủ sở hữu quyền tác giả thường được tiến hành theo cách thức chuyển nhượng quyền tác giả và chuyển nhượng quyền sử dụng quyền tác giả. Hợp đồng chuyển giao quyền tác giả là hợp đồng chuyển giao toàn bộ hay một phần quyền tác giả từ chủ thể này sang chủ thể khác. Hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả theo quy định của hầu hết hệ thống pháp luật là phải được dưới hình thức văn bản phải có đầy đủ chữ ký của các bên. Theo quy định tại Điều 48 Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam thì Hợp đồng chuyển nhượng phải được lập thành văn bản. Trong đó các quyền tài sản và quyền nhân thân như quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố là đối tượng có thể chuyển giao.

Trên đây là bài viết “Các trường hợp tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả độc lập với nhau

”mà VCD gửi đến bạn. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,