Giám đốc sáng tạo ra tác phẩm thì công ty hay cá nhân được sở hữu bản quyền?
Trong quá trình điều hành doanh nghiệp, nhiều giám đốc không chỉ đảm nhận vai trò quản lý mà còn trực tiếp tham gia sáng tạo ra các sản phẩm mang tính trí tuệ như thiết kế, phần mềm hay nội dung truyền thông. Những tác phẩm này vừa thể hiện năng lực cá nhân của người lãnh đạo, vừa gắn liền với hoạt động của công ty. Do đó đã xuất hiện những thắc mắc về việc xác định chủ thể nắm giữ quyền sở hữu đối với các tác phẩm do giám đốc sáng tạo ra. Để hiểu rõ vấn đề này hãy theo dõi bài viết của VCD dưới đây.
1. Khái niệm tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả?
Theo khoản 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009, 2019), quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Trong đó, đối tượng quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.
Theo khoản 1 Điều 13 Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành, tổ chức, cá nhân có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả gồm người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả được quy định tại các điều từ Điều 37 đến Điều 42 của Luật này.
Như vậy, tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả là hai nhóm chủ thể được pháp luật bảo hộ. Trong đó, tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học và có các quyền nhân thân đối với tác phẩm.
Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân nắm giữ một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản quy định tại Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ, như quyền sao chép, phân phối, truyền đạt hoặc làm tác phẩm phái sinh. Chủ sở hữu có thể là chính tác giả, hoặc là tổ chức, cá nhân được giao quyền hoặc đầu tư sáng tạo ra tác phẩm.

2. Giám đốc sáng tạo ra tác phẩm thì công ty hay cá nhân được sở hữu bản quyền?
Trong một tổ chức, giám đốc là người đứng đầu doanh nghiệp, vị trí lãnh đạo cao nhất và có trách nhiệm chính trong việc điều hành và quản lý hoạt động của doanh nghiệp. Họ đứng đầu các bộ phận và có thẩm quyền ra quyết định chiến lược để đạt được mục tiêu của công ty. Vị trí giám đốc thường là người có kinh nghiệm và năng lực lãnh đạo xuất sắc. Theo quy định tại khoản 24 Điều 4 Luật doanh nghiệp 2020, giám đốc là một trong những người quản lý doanh nghiệp.
Trước hết, nếu giám đốc sáng tạo ra tác phẩm với tư cách cá nhân, tức là tác phẩm được hình thành từ ý tưởng, thời gian và công sức của cá nhân giám đốc, không nằm trong nhiệm vụ được công ty giao, cũng không sử dụng kinh phí, trang thiết bị hay nhân lực của công ty, thì người giám đốc đó vừa là tác giả, vừa là chủ sở hữu quyền tác giả. Trong trường hợp này, toàn bộ quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm thuộc về cá nhân giám đốc. Công ty không có quyền khai thác, sử dụng hoặc phân phối tác phẩm, trừ khi có thỏa thuận chuyển giao hoặc cấp phép sử dụng được lập bằng văn bản giữa hai bên.
Ngược lại, trong trường hợp tác phẩm được sáng tạo trong quá trình thực hiện công việc theo nhiệm vụ công ty giao, hoặc sử dụng nguồn lực của công ty như thời gian làm việc, trang thiết bị, tài chính hay đội ngũ nhân viên hỗ trợ, thì theo quy định tại Điều 39 Luật Sở hữu trí tuệ, công ty sẽ là chủ sở hữu quyền tác giả, còn giám đốc được công nhận là tác giả. Điều này có nghĩa là giám đốc vẫn có quyền nhân thân (như được ghi tên là tác giả, bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm), nhưng các quyền tài sản bao gồm quyền sao chép, phân phối, công bố, cho thuê, hoặc làm tác phẩm phái sinh thuộc về công ty. Quy định này nhằm đảm bảo công bằng cho tổ chức đã giao nhiệm vụ và đầu tư nguồn lực vào quá trình sáng tạo.
Ngoài ra, pháp luật cũng cho phép các bên tự thỏa thuận về quyền sở hữu. Ví dụ, công ty có thể chuyển giao quyền sở hữu tác phẩm lại cho giám đốc hoặc ngược lại, tùy theo mục đích và lợi ích của mỗi bên. Việc thỏa thuận này nên được thể hiện bằng văn bản rõ ràng, tránh các tranh chấp phát sinh sau này khi tác phẩm được khai thác thương mại.
Như vậy, việc xác định chủ thể được sở hữu bản quyền trong trường hợp giám đốc sáng tạo ra tác phẩm không thể chỉ căn cứ vào chức vụ hay mối quan hệ lao động, mà phải xem xét bối cảnh, điều kiện sáng tạo, nguồn lực sử dụng và thỏa thuận giữa các bên. Chỉ khi xác định rõ những yếu tố này mới có thể khẳng định chính xác quyền sở hữu thuộc về cá nhân giám đốc hay công ty, đảm bảo phù hợp với quy định của pháp luật và quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.
Trên đây là bài viết “Giám đốc sáng tạo ra tác phẩm thì công ty hay cá nhân được sở hữu bản quyền?” mà VCD gửi đến bạn. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.
Trân trọng,