Dưới góc độ pháp lý, nhiều người thường nhầm lẫn về việc liệu hình ảnh cá nhân có được bảo hộ bản quyền theo Luật Sở hữu trí tuệ tại Việt Nam hay không. Sự nhầm lẫn này phần lớn xuất phát từ việc không phân biệt rõ giữa quyền nhân thân và quyền sở hữu trí tuệ. Vậy, hình ảnh cá nhân có được bảo hộ bản quyền không? Hãy theo dõi bài viết của VCD dưới đây.
1. Quy định của pháp luật về tác phẩm được bảo hộ bản quyền?
Bản quyền hay còn gọi là quyền tác giả là quyền pháp lý bảo vệ các tác phẩm sáng tạo của con người trong lĩnh vực như văn học, nghệ thuật và khoa học. Các tác phẩm được bảo hộ bao gồm các tác phẩm văn học như sách, thơ, truyện, các tác phẩm nghệ thuật, tác phẩm âm nhạc, logo, tác phẩm khoa học, chương trình máy tính,… Quyền tác giả đảm bảo rằng người sáng tạo ra tác phẩm có quyền kiểm soát, quản lý, sở hữu việc sử dụng, phân phối,.. tác phẩm và được hưởng lợi từ thành quả lao động trí óc của mình.
Theo quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành tại Điều 18 quy định: quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Quyền nhân thân bao gồm các quyền gắn liền với cá nhân tác giả liên quan đến danh dự, uy tín của tác giả và không thể chuyển nhượng được. Trong khi đó quyền tài sản là những quyền có thể chuyển nhượng được cho phép tác giả khai thác giá trị kinh tế từ tác phẩm của chính mình như: sao chép, phân phối, quyền làm tác phẩm phái sinh,… Quyền tài sản có thể chuyển nhượng hoặc thừa kế đóng vai trò quan trọng trong việc khai thác lợi ích kinh tế của tác phẩm.
Do vậy có thể thấy rằng quyền tác giả chỉ áp dụng đối với những tác phẩm sáng tạo có tính nguyên bản và thuộc một trong các loại hình theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ. Do đó, Luật sở hữu trí tuệ chỉ bảo vệ các tác phẩm thể hiện sự sáng tạo cá nhân, có giái trị nghệ thuật, khoa học, văn học nhất định. Những sáng tạo này phải được thể hiện dưới dạng hình thức vật chất nhất định.

2. Hình ảnh cá nhân có được bảo hộ bản quyền không?
Hình ảnh cá nhân không phải là tác phẩm sáng tạo có tính nghệ thuật hay khoa học như các tác phẩm thuộc loại hình được bảo hộ theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ hiện hành. Một tấm chân dung hay hình ảnh đời thường của cá nhân không được coi là sản phẩm có tính nguyên bản, độc đáo và không mang tính nghệ thuật theo nghĩa mà Luật Sở hữu trí tuệ yêu cầu để bảo hộ.
Hình ảnh cá nhân chủ yếu liên quan đến quyền nhân thân và quyền riêng tư của cá nhân, không liên quan đến quá trình sáng tạo hay thương mại hóa. Tuy nhiên cần lưu ý rằng quyền nhân thân ở đây không phải quyền nhân thân thuộc quyền tác giả.
Trong khi đó các tác phẩm được bato hộ thường nhằm mục đích thương mại khai thác giá trị kinh tế hoặc bảo vệ quyền lợi của tác giả, hình ảnh cá nhân chủ yếu được bảo vệ đảm bảo cá nhân đó có quyền kiểm soát cách mà hình ảnh của mình được sử dụng.
Điều 32 của Bộ luật Dân sự năm 2015 (số 91/2015/QH13) quy định rõ về quyền của cá nhân đối với hình ảnh của chính mình. Cụ thể, cá nhân có toàn quyền đối với hình ảnh của bản thân; mọi bên muốn sử dụng hình ảnh này đều phải có sự đồng ý của người đó. Đặc biệt, nếu hình ảnh được sử dụng cho mục đích thương mại, bên sử dụng phải trả thù lao cho chủ sở hữu hình ảnh, trừ khi có thỏa thuận khác.
Quy định này nhằm bảo vệ quyền nhân thân của mỗi cá nhân, đảm bảo rằng hình ảnh của họ không bị lạm dụng hay sử dụng sai mục đích, gây tổn hại đến danh dự và uy tín. Điều này giúp ngăn chặn các hành vi lạm dụng, như việc sử dụng hình ảnh cho mục đích thương mại mà không có sự cho phép, hoặc xuyên tạc, bóp méo hình ảnh để ảnh hưởng đến cá nhân.
Khi việc sử dụng hình ảnh vi phạm quy định pháp luật, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án can thiệp, yêu cầu thu hồi, tiêu hủy hoặc chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, cũng như bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Hình ảnh cá nhân không chỉ là quyền nhân thân mà còn là một trong những dữ liệu cá nhân cơ bản được bảo vệ bởi nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Đặc biệt, Nghị định số 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân, có hiệu lực từ tháng 7 năm 2023, đã xác định hình ảnh cá nhân là một loại dữ liệu được bảo hộ.
Trong khi Luật Sở hữu trí tuệ bảo vệ các tác phẩm sáng tạo, cho phép tác giả khai thác thương mại và hưởng lợi ích kinh tế từ sản phẩm trí tuệ của họ, quyền đối với hình ảnh cá nhân lại tập trung vào việc bảo vệ quyền nhân thân, sự riêng tư và phẩm giá của cá nhân. Mục tiêu không phải là khai thác giá trị thương mại từ hình ảnh, mà là bảo vệ quyền tự quyết của cá nhân về cách thức sử dụng hình ảnh của mình, ngăn chặn lạm dụng có thể gây tổn hại đến danh dự hay uy tín.
Do đó, quyền đối với hình ảnh cá nhân thường bị nhầm lẫn với quyền nhân thân trong bản quyền hay quyền tác giả, nhưng thực tế, mặc dù có nhiều điểm tương đồng, hai khái niệm này vẫn có những khác biệt quan trọng không thể đồng nhất.
Thực tế, hình ảnh cá nhân không được bảo hộ bởi bản quyền, vì bản quyền chỉ áp dụng cho các tác phẩm sáng tạo mang tính nghệ thuật, văn học và khoa học. Thay vào đó, hình ảnh cá nhân được bảo vệ theo các quy định của Bộ luật Dân sự và các bộ luật liên quan, nhằm đảm bảo quyền nhân thân và bảo vệ sự riêng tư của cá nhân. Quy định này giúp ngăn chặn việc lạm dụng hình ảnh cá nhân và bảo vệ danh dự, uy tín của từng cá nhân trong xã hội.
Trên đây là bài viết “Hình ảnh cá nhân có được bảo hộ bản quyền không?” mà VCD gửi đến bạn. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.
Trân trọng,