Nguyên tắc sử dụng hợp lý (tên tiếng anh là “fair use”) là một nguyên tắc được gọi tên theo một học thuyết của Hoa Kỳ về những giới hạn và ngoại lệ được phép sử dụng bản sao tác phẩm mà không bị coi là xâm phạm quyền tác giả. Những công ước, hiệp định quốc tế cũng đã đề cập đến những trường hợp giới hạn và ngoại lệ này, tiêu biểu là công ước Berne với “phép thử ba bước” mà Việt Nam là thành viên. Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam sửa đổi năm 2022 đã tiếp thu và áp dụng những quy định của pháp luật quốc tế và lần đầu tiên quy định những trường hợp ngoại lệ và giới hạn quyền tác giả.

1. Nguyên tắc sử dụng hợp lý trong pháp luật quốc tế

Theo Điều 9.2 Công ước Berne bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật có quy định: “Luật pháp quốc gia thành viên Liên hiệp, trong một vài trường hợp đặc biệt, có quyền cho phép sao in những tác phẩm nói trên, miễn là sự sao in đó không phương hại đến việc khai thác bình thường tác phẩm hoặc không gây ảnh hưởng bất hợp lý đến những quyền lợi hợp pháp của tác giả”. Quy định này được hiểu rằng việc sao chép tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả sẽ không bị coi là hành vi xâm phạm quyền độc quyền sao chép của tác giả nếu hành vi đó:

  • Thuộc các trường hợp ngoại lệ đặc biệt mà được quy định bởi pháp luật quốc gia;
  • Không phương hại việc khai thác bình thường tác phẩm;
  • Không gây tổn hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả.

Bên cạnh đó, Điều 13 Hiệp định TRIPS 1994 cũng quy định: “Nước thành viên phải xác định các giới hạn hoặc ngoại lệ đối với độc quyền đối với một số trường hợp đặc biệt mà các trường hợp đó không được xung đột với việc khai thác bình thường tác phẩm và cũng không gây tổn hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả”. Hiệp ước WIPO 1996 cũng quy định nội dung tương tự trong Điều 10[1].

Điều 107 Luật Bản quyền Hoa Kỳ có tên gọi là “Hạn chế về độc quyền: Sử dụng hợp lý”
(Limitations on exclusive rights: Fair use).  Theo đó, việc sử dụng hợp pháp tác phẩm có bản quyền, bao gồm cả việc sử dụng bằng cách sao chép dưới dạng bản sao hoặc bản ghi âm hoặc bằng bất kỳ phương tiện nào khác được chỉ định bởi phần đó, cho các mục đích như phê bình, bình luận, đưa tin, giảng dạy (bao gồm nhiều bản sao để sử dụng trong lớp học), học bổng hoặc nghiên cứu, không phải là hành vi vi phạm bản quyền, tuy nhiên phải đáp ứng 04 điều kiện: (i) Mục đích và tính chất của hành vi sử dụng, xem xét đến việc sử dụng có tính chất thương mại hay cho việc mục đích giáo dục phi lợi nhuận (ii) Bản chất của phần tác phẩm được sử dụng; (iii) Số lượng và bản chất của phần tác phẩm được trích dẫn trên tổng thể; (iv)Tác động của việc sử dụng tác phẩm đến thị trường tiềm năng và giá trị của tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả[2].

2. Nguyên tắc sử dụng hợp lý trong pháp luật Việt Nam

Việt Nam đã tiếp thu và thực hiện nội luật hóa quy định về “sử dụng hợp lý” tại các cam kết quốc tế. Cụ thể, Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi năm 2022 đã quy định tại Điều 25 và Điều 32, lấy tên lần lượt là các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả và quyền liên quan, trong đó nêu rõ các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền bản quyền nhưng phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm, thông tin về cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng. Đồng thời, điều luật cũng quy định các trường hợp sử dụng đó không được mâu thuẫn với việc khai thác bình thường tác phẩm và không gây thiệt hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả. Các trường hợp được coi là sử dụng hợp lý mà không xâm phạm quyền tác giả bao gồm:

  • Tự sao chép một bản để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại. Quy định này không áp dụng trong trường hợp sao chép bằng thiết bị sao chép;
  • Sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại;
  • Sử dụng hợp lý tác phẩm để minh họa trong bài giảng, ấn phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng nhằm mục đích giảng dạy. Việc sử dụng này có thể bao gồm việc cung cấp trong mạng máy tính nội bộ với điều kiện phải có các biện pháp kỹ thuật để bảo đảm chỉ người học và người dạy trong buổi học đó có thể tiếp cận tác phẩm này;
  • Sử dụng tác phẩm trong hoạt động công vụ của cơ quan nhà nước;
  • Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận, giới thiệu hoặc minh họa trong tác phẩm của mình; để viết báo, sử dụng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát sóng, phim tài liệu;
  • Sử dụng tác phẩm trong hoạt động thư viện không nhằm mục đích thương mại, bao gồm sao chép tác phẩm lưu trữ trong thư viện để bảo quản, với điều kiện bản sao này phải được đánh dấu là bản sao lưu trữ và giới hạn đối tượng tiếp cận theo quy định của pháp luật về thư viện, lưu trữ; sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép cho người khác phục vụ nghiên cứu, học tập; sao chép hoặc truyền tác phẩm được lưu giữ để sử dụng liên thông thư viện thông qua mạng máy tính, với điều kiện số lượng người đọc tại cùng một thời điểm không vượt quá số lượng bản sao của tác phẩm do các thư viện nói trên nắm giữ, trừ trường hợp được chủ sở hữu quyền cho phép và không áp dụng trong trường hợp tác phẩm đã được cung cấp trên thị trường dưới dạng kỹ thuật số;
  • Biểu diễn tác phẩm sân khấu, âm nhạc, múa và các loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hóa, hoạt động tuyên truyền cổ động không nhằm mục đích thương mại;
  • Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm mỹ thuật, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó, không nhằm mục đích thương mại;
  • Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng cá nhân, không nhằm mục đích thương mại;
  • Sao chép bằng cách đăng tải lại trên báo, ấn phẩm định kỳ, phát sóng hoặc các hình thức truyền thông khác tới công chúng bài giảng, bài phát biểu, bài nói khác được trình bày trước công chúng trong phạm vi phù hợp với mục đích thông tin thời sự, trừ trường hợp tác giả tuyên bố giữ bản quyền;
  • Chụp ảnh, ghi âm, ghi hình, phát sóng sự kiện nhằm mục đích đưa tin thời sự, trong đó có sử dụng tác phẩm được nghe thấy, nhìn thấy trong sự kiện đó;
  • Người khuyết tật nhìn, người khuyết tật không có khả năng đọc chữ in và người khuyết tật khác không có khả năng tiếp cận tác phẩm để đọc theo cách thông thường (sau đây gọi là người khuyết tật), người nuôi dưỡng, chăm sóc cho người khuyết tật, tổ chức đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ sử dụng tác phẩm.
  • Ghi âm, ghi hình trực tiếp một phần cuộc biểu diễn để giảng dạy không nhằm mục đích thương mại hoặc để đưa tin thời sự;
  • Tự sao chép hoặc hỗ trợ người khuyết tật sao chép một phần cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại;
  • Sao chép hợp lý một phần cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng để giảng dạy trực tiếp của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại, trừ trường hợp cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng này đã được công bố để giảng dạy;
  • Trích dẫn hợp lý nhằm mục đích đưa tin thời sự;
  • Tổ chức phát sóng tự làm bản sao tạm thời để phát sóng khi được hưởng quyền phát sóng.

Trên đây là bài viết “Nguyên tắc sử dụng hợp lý – “fair use” trong pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,


[1] Điều 10. Hạn chế và ngoại lệ

(1) Các Bên ký kết có thể quy định trong pháp luật nước mình những hạn chế và ngoại lệ đối với các quyền dành cho tác giả tác phẩm văn học và nghệ thuật theo Hiệp ước này trong những trường hợp đặc biệt cụ thể, không mâu thuẫn với việc khai thác bình thường tác phẩm và không làm phương hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả.

(2) Khi áp dụng Công ước Berne, các Bên ký kết phải xác định rõ các hạn chế hoặc ngoại lệ đối với các quyền được quy định trong những trường hợp đặc biệt cụ thể mà không mâu thuẫn với việc khai thác bình thường tác phẩm và không làm phương hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả.

[2] https://www.law.cornell.edu/uscode/text/17/107