Trong bối cảnh công nghệ ngày càng phát triển, trí tuệ nhân tạo (AI) đã trở thành một công cụ mạnh mẽ trong việc sáng tạo ra các tác phẩm nghệ thuật, âm nhạc và văn học. Sự bùng nổ của AI đã đặt ra nhiều câu hỏi về quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là quyền tác giả đối với những tác phẩm do nó tạo ra. Vậy, háp luật Việt Nam có bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra không?. Bài viết của VCD dưới đây sẽ giúp bạn.

1. Khái quát về Trí tuệ nhân tạo

Theo John McCarrthy của Viện công nghệ Massachusetts (MIT) giải thích thuật ngữ trí tuwj nhân tạo như sau: “Đó là khoa học và kỹ thuật tạo ra máy móc thông minh, đặc biệt là các chương trình máy tính thông minh. Nó liên quan đến những nhiệm vụ tương tự như sử dụng máy tính để hiểu trí thông minh của con người”.

Hiểu một cách đơn giản nhất, trí tuệ nhân tạo là “trí thông minh” của máy tính do con người lập trình để giúp máy tính có thể mô phỏng trí tuệ con người và bắt chước hoạt động của họ. Thuật ngữ này cũng có thể được áp dụng cho bất kỳ máy móc nào thể hiện những đặc điểm liên quan đến trí óc con người như học tập, ra quyết định hay giải quyết các vấn đề. Để thực hiện những hoạt động mô phỏng trí óc này, ở trí tuệ nhân tạo có sự kết hợp giữa khoa học máy tính và bộ dữ liệu mạnh mẽ.

Thông thường trí tuệ nhân tạo được chia thành 3 loại:

  • Trí tuệ nhân tạo hẹp (Narrow AI): là một loại trí tuệ nhân tạo được thết kế để thực hiện một nhiệm vụ cụ thể hoặc một tập hợp hẹp các nhiệm vụ.
  • Trí tuệ nhân tạo mạnh (General AI): là một dạng trí tuệ nhân tạo có khả năng hiểu và thực hiện một loạt các nhiệm vụ tương tự như con người, đặc biệt là khả năng tư duy, tự học và áp dụng kiến thức vào tình huống mới.
  • Trí tuệ nhân tạo siêu việt (Superintelligence): đây là một dạng trí tuệ nhân tạo vượt xa trí tuệ con người. Nó đại diện cho một hệ thống trí tuệ nhân tạo có khả năng thông minh tuyệt đối và vượt trội so với khả năng của con người trong mọi khía cạnh.
có bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra không

2. Điều kiện để được bảo hộ quyền tác giả

Theo Công ước Berne và quy định tại Khoản 7 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, khái niệm “tác phẩm” được định nghĩa là “sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học được thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào.” Đồng thời, Khoản 3 Điều 14 quy định rằng tác phẩm được bảo hộ “phải do tác giả trực tiếp sáng tạo ra bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác.”

Được thể hiện dưới một hình thức nhất định:

Pháp luật ghi nhận rằng Quyền tác giả chỉ được xác lập khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định như dạng ghi âm, ghi hình, viết lại, được đọc lên,… Do vậy, nếu kết quả sáng tạo nếu mới chỉ dừng lại ở mặt ý tưởng trong đầu tác giả, chưa được thể hiện ra bên ngoài bằng một hình thức vật chất thì không thể được coi là một tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả.

Là kết quả của hoạt động sáng tạo tinh thần:

Tác phẩm để được bảo hộ quyền tác giả phải dựa trên quá trình suy nghĩ, tìm hiểu, sáng tạo, phản ánh tư tưởng, tình cảm của người sáng tác. Nói cách khác, tác phẩm phải là sản phẩm sáng tạo mang giá trị nội dung và tinh thần của tác giả.

Tác phẩm phải mang tính nguyên gốc:

“Tính nguyên gốc” (originality) đòi hỏi tác phẩm phải do tác giả độc lập và trực tiếp sáng tạo ra mà không sao chép từ chủ thể khác. Tính nguyên gốc không yêu cầu tác phẩm phải có giá trị nội dung cao, hoặc chất lượng nghệ thuật độc đáo, nhưng cần có tạo ra dấu ấn riêng của tác giả qua nội dung hoặc hình thức thể hiện tác phẩm.

3. Pháp luật Việt Nam có bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra không?

AI, thực chất là một sản phẩm trí tuệ do con người tạo ra, phát triển qua các hình thức robot hoặc máy móc hữu hình khác, nhằm giảm thiểu sức lao động cho con người. Các ứng dụng của AI, như robot quét nhà hay robot chơi cờ, thực hiện công việc một cách rập khuôn theo thiết lập của con người.

Căn cứ theo khoản 1, 2 và 6 Điều 4 Luật ở hữu trí tuệ quy định:

Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1. Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.

2. Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.

6. Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ là chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ hoặc tổ chức, cá nhân được chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ.

….

Thêm vào đó tại Điều 13 Luật sở hữu trí tuệ hiện hành quy định về chủ thể quyền tác giả bao gồm: Tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam mà chưa được công bố ở bất kỳ nước nào hoặc được công bố đồng thời tại Việt Nam trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày tác phẩm đó được công bố lần đầu tiên ở nước khác; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Dựa vào các quy định trên cho thấy pháp luật Việt Nam chỉ xác định các chủ thể quyền tác giả là cá nhân và tổ chức, mà chưa công nhận trí tuệ nhân tạo (AI) là một chủ thể có quyền tác giả.

Do đó, các tác phẩm được tạo ra bởi trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam chưa được bảo hộ quyền tác giả. Điều này có nghĩa là các sản phẩm sáng tạo do AI tạo ra không được công nhận quyền sở hữu trí tuệ.

Trên đây là bài viết “Pháp luật Việt Nam có bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra không?”mà VCD gửi đến bạn. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,