Skip to main content

Tác giả: Biên Tập Viên

Bản quyển âm nhạc giữa nhà sáng tạo và trí tuệ nhân tạo (AI)

Xung đột bản quyền giữa các nhà sáng tạo và trí tuệ nhân tạo (AI) hiện vẫn là vấn đề nóng trong ngành công nghiệp âm nhạc. Hiện nay, việc sử dụng dịch vụ AI tạo sinh đang lan rộng và được ứng dụng vào lĩnh vực sáng tạo nội dung ngày càng cao. Điều này khiến nhiều người e ngại về việc xung đột bản quyền dựa trên tiền đề sáng tạo âm nhạc của con người. Bài viết “Bản quyển âm nhạc giữa nhà sáng tạo và trí tuệ nhân tạo (AI)” của VCD dưới đây sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về vấn đề này.

1.Bản quyển âm nhạc giữa nhà sáng tạo và trí tuệ nhân tạo (AI)

Theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP, tác phẩm âm nhạc được hiểu là tác phẩm được thể hiện dưới dạng nhạc nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác hoặc được định hình trên bản ghi âm, ghi hình có hoặc không có lời, không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn. Do đó, bản quyền âm nhạc được hiểu là quyền của tác giả đối với tác phẩm được thể hiện dưới dạng nhạc nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác hoặc được định hình trên bản ghi âm, ghi hình có hoặc không có lời, không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn kể từ thời điểm mà tác giả tạo ra tác phẩm.

Nhà sáng tạo âm nhạc(con người) là một cá nhân hoặc nhóm người tham gia vào quá trình sáng tác, sản xuất, và biểu diễn các tác phẩm âm nhạc. Nhà sáng tạo theo truyền thống thì quyền sở hữu bản quyền âm nhạc thuộc về con người là những nhạc sĩ, nhà sản xuất hoặc tổ chức đã sáng tạo ra tác phẩm âm nhạc.

AI là sự mô phỏng các quá trình thông minh của con người bằng máy móc, đặc biệt là hệ thống máy tính. Các ứng dụng cụ thể của AI bao gồm hệ thống chuyên gia, xử lý ngôn ngữ tự nhiên, nhận dạng giọng nói và thị giác máy. Nói một cách đơn giản, AI là một sản phẩm do con người tạo ra, nhằm mục đích hỗ trợ và giải đáp những thắc mắc của con người.

Tranh chấp bản quyền âm nhạc giữa nhà sáng tạo và trí tuệ nhân tạo (AI) là sự xung đột pháp lý và đạo đức liên quan đến quyền sở hữu, quyền sử dụng, và quyền lợi tài chính đối với các tác phẩm âm nhạc được tạo ra bởi công nghệ AI. Các tranh chấp này phát sinh từ việc xác định ai là chủ sở hữu bản quyền hợp pháp của những tác phẩm này và ai được hưởng các quyền lợi liên quan khi AI tham gia vào quá trình sáng tạo âm nhạc.

Bản quyển âm nhạc giữa nhà sáng tạo và trí tuệ nhân tạo (AI)

2. Tranh chấp bản quyền giữa nhà sáng tạo và trí tuệ nhân tạo (AI) hiện nay

Mới nhất vào ngày 24/6/2024, Sony Music Entertainment, Warner Records, Capitol Records và những hãng thu âm khác đã đệ đơn kiện vi phạm bản quyền lên tòa án liên bang ở Boston và New York, cho rằng “Suno và Udio đã sao chép tác phẩm để đời của các nghệ sĩ và khai thác nó để kiếm lợi nhuận mà không có sự đồng ý hoặc trả tác quyền” cáo buộc rằng các startup AI âm nhạc này đang khai thác trái phép các tác phẩm đã ghi âm của nhiều nghệ sĩ, từ Chuck Berry đến Mariah Carey.

Vụ kiện cáo buộc phần mềm “ăn cắp” bài hát để tạo ra các giai điệu tương tự, yêu cầu bồi thường 150.000 đô la cho mỗi tác phẩm. Nếu bị kết tội, số tiền bồi thường mà Suno và Udio phải gánh chịu có thể lên tới con số khổng lồ. Động thái cứng rắn này cho thấy rõ quyết tâm của ngành công nghiệp âm nhạc trong việc thiết lập một khuôn khổ pháp lý rõ ràng cho AI, đồng thời răn đe những công ty khác có ý định huấn luyện mô hình AI mà chưa được sự đồng ý.

Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) là đơn vị khởi xướng các vụ kiện này, với mục tiêu khẳng định “không có ngoại lệ nào cho công nghệ AI trước luật bản quyền và các công ty AI không thể đứng ngoài vòng pháp luật”.

Suno ra mắt sản phẩm đầu tiên vào năm 2023 và cho biết đã có hơn 10 triệu người sử dụng công cụ của họ để sáng tạo nhạc. Công ty này có quan hệ đối tác với Microsoft, hiện thu phí hằng tháng cho dịch vụ của mình và gần đây đã công bố họ huy động được 125 triệu USD từ các nhà đầu tư. Trong khi đó, Udio có trụ sở tại New York, được hỗ trợ bởi các nhà đầu tư mạo hiểm nổi tiếng như Andreessen Horowitz, ra mắt công chúng vào tháng 4.2024 và nhanh chóng nổi tiếng vì là công cụ được sử dụng để tạo ra BBL Drizzy – một bài hát “chế” liên quan đến mâu thuẫn giữa hai rapper nổi tiếng Kendrick Lamar và Drake.

RIAA khẳng định, các bản nhạc do phần mềm của hai công ty này tạo ra giống với tác phẩm gốc đến mức khó tin, chứng tỏ chúng đã được huấn luyện bằng chính những bản nhạc có bản quyền. Theo The Wall Street Journal, các công ty AI đã tạo ra sản phẩm giống hệt My Girl của The Temptations, American Idiot của Green Day, All I Want for Christmas Is You của Mariah Carey… cùng nhiều ca khúc nổi tiếng khác. Thậm chí, phần mềm có thể tạo ra giọng hát “giả mạo” không thể phân biệt với giọng thật của các nghệ sĩ như Lin-Manuel Miranda, Bruce Springsteen, Michael Jackson và ABBA…

Dù không phản đối việc AI học hỏi từ các tác phẩm có bản quyền, nhưng RIAA cho rằng, việc sử dụng dữ liệu không có giấy phép và sự đồng ý của chủ sở hữu bản quyền là hành vi vi phạm pháp luật, bởi các hãng thu âm (và chính các nghệ sĩ) không hề nhận được bất kỳ khoản lợi nhuận nào. AI không thể biện minh cho việc không tuân thủ “luật chơi”, và hành vi đánh cắp quy mô lớn các bản ghi âm đã và đang đe dọa “toàn bộ hệ sinh thái âm nhạc”.

Trên thực tế, ngành công nghiệp ghi âm đang nỗ lực xây dựng thỏa thuận hợp tác với các công ty AI, cho phép họ sử dụng dữ liệu âm nhạc một cách hợp pháp và đảm bảo lợi ích cho cả hai bên. Điển hình như thỏa thuận giữa Universal và SoundLabs, cho phép SoundLabs tạo ra mô hình giọng hát nhưng vẫn đảm bảo quyền sở hữu và kiểm soát sản phẩm cuối cùng. Universal cũng hợp tác với YouTube trong thỏa thuận cấp phép và trả phí bản quyền cho nội dung do AI tạo ra.

Qua đây, VCD thấy rằng sự phát triển nhanh chóng của trí tuệ nhân tạo (AI) trong lĩnh vực âm nhạc và nghệ thuật đặt ra nhiều thách thức mới về bản quyền. Hiện tại, các luật bản quyền hiện hành chưa đủ linh hoạt và không thể áp dụng một cách trực tiếp cho các tác phẩm âm nhạc được tạo ra hoặc phát triển bởi AI. Để đảm bảo quyền lợi cho các nghệ sĩ và nhà sản xuất âm nhạc, cũng như khuyến khích sự sáng tạo và phát triển của AI trong lĩnh vực này, các tổ chức và nhà lập pháp đang phải xem xét và đưa ra các quy định mới.

Bản quyền âm nhạc trong chương trình quảng cáo

Vấn đề bản quyền hiện đang đối mặt với nhiều thách thức trong lĩnh vực truyền thông và quảng cáo trên toàn thế giới, bao gồm cả Việt Nam.Tại Việt Nam, có nhiều trường hợp vi phạm bản quyền trong quảng cáo đã được ghi nhận, chẳng hạn như sử dụng một bài hát nổi tiếng trong video quảng cáo mà không có sự cho phép của tác giả hay sử dụng hình ảnh hoặc logo của một thương hiệu khác mà không có sự đồng ý, dẫn đến vi phạm quyền nhãn hiệu. Do đó việc hiểu rõ quy định của pháp luật Sở hữu Trí tuệ về bản quyền âm nhạc trong chương trình quảng cáo là cần thiết. Bài viết của VCD dưới đây sẽ giúp bạn hiểu rõ vấn đề này.

1. Khái niệm bản quyền âm nhạc trong chương trình quảng cáo

Bản quyền âm nhạc theo quy định của Luật sở hữu Trí tuệ là quyền của tác giả đối với tác phẩm được thể hiện dưới dạng nhạc nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác hoặc được định hình trên bản ghi âm, ghi hình có hoặc không có lời, không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn kể từ thời điểm mà tác giả tạo ra tác phẩm.

Quảng cáo là hình thức truyền thông để giới thiệu, quảng bá sản phẩm, dịch vụ, hoặc thương hiệu đến khách hàng mục tiêu. Âm nhạc thường được sử dụng trong quảng cáo để tạo ấn tượng và tăng cường hiệu quả truyền tải thông điệp.

Như vậy, bản quyền âm nhạc trong chương trình quảng cáo là việc sử dụng hợp pháp các tác phẩm âm nhạc (như bài hát, bản nhạc) trong các nội dung quảng cáo, đồng thời tuân thủ các quy định về quyền tác giả. Việc này đòi hỏi các nhà sản xuất quảng cáo phải xin phép sử dụng và trả tiền bản quyền cho các tác giả, nhạc sĩ, và nhà sản xuất âm nhạc thông qua các tổ chức quản lý quyền tác giả.

Bản quyền âm nhạc trong chương trình quảng cáo

2. Quy định của pháp luật về bản quyền âm nhạc trong chương trình quảng cáo

Theo quy định tại Điều 26. Giới hạn quyền tác giả Luật Sở hữu Trí tuệ quy định như sau:

1. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền, phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm bao gồm:

a) Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố, tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép định hình trên bản ghi âm, ghi hình công bố nhằm mục đích thương mại để phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng. Mức tiền bản quyền và phương thức thanh toán do các bên thỏa thuận; trường hợp không đạt được thỏa thuận thì thực hiện theo quy định của Chính phủ.

Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố, tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép định hình trên bản ghi âm, ghi hình công bố nhằm mục đích thương mại để phát sóng không có tài trợ, quảng cáo hoặc không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng theo quy định của Chính phủ;

b) Trường hợp tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép định hình trên bản ghi âm, ghi hình công bố nhằm mục đích thương mại thì tổ chức, cá nhân sử dụng bản ghi âm, ghi hình này trong hoạt động kinh doanh, thương mại không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền cho chủ sở hữu quyền tác giả của tác phẩm đó theo thỏa thuận kể từ khi sử dụng; trường hợp không đạt được thỏa thuận thì thực hiện theo quy định của Chính phủ. Chính phủ quy định chi tiết các hoạt động kinh doanh, thương mại quy định tại điểm này.

Khi các tổ chức phát sóng mà phát sóng các chương trình quảng cáo, thì sẽ không cần phải xin phép, nhưng cần phải trả tiền nhuận bút hoặc trả thù lao, việc tiến hành sẽ như sau:

Trường hợp 1: Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng. Mức nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác và phương thức thanh toán do các bên thoả thuận; trường hợp không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định của Chính phủ hoặc khởi kiện tại Toà án theo quy định của pháp luật;

Trường hợp 2: Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng không có tài trợ, quảng cáo hoặc không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng theo quy định của Chính phủ.

Tuy nhiên cần lưu ý rằng sử dụng các lời bài hát không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.

Có một số trường hợp trong quảng cáo được miễn phí bản quyền, nếu như tác phẩm được sử dụng trong quảng cáo đã hết thời hạn bảo hộ quyền tài sản (thông thường là 50 năm sau khi tác giả qua đời), thì tổ chức, cá nhân có thể sử dụng tác phẩm mà không cần xin phép và trả tiền bản quyền, tuy nhiên vẫn cần nêu tên tác giả và nguồn gốc tác phẩm được sử dụng trong quảng cáo.

Nếu một quảng cáo sử dụng hình ảnh, âm thanh, video được cung cấp bởi một bên thứ ba, doanh nghiệp cần yêu cầu bên thứ ba đó cung cấp các văn bản chứng minh quyền này, ví dụ như hợp đồng ủy quyền quản lý, khai thác tác phẩm hoặc hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, hợp đồng sử dụng tác phẩm… trong đó ghi nhận bên thứ ba có quyền cho phép chủ thể khác sử dụng tác phẩm.

Một số trường hợp quảng cáo sử dụng một tác phẩm được bảo vệ bản quyền mà không được sự cho phép của tác giả hoặc chủ sở hữu bản quyền, nhưng lại không có lợi nhuận kinh doanh từ việc đó. Việc này không thuộc các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả quy định tại Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ. Do đó, trường hợp này vẫn bị coi là xâm phạm quyền tác giả.

Ngoài ra, trường hợp một doanh nghiệp sử dụng các tác phẩm sáng tạo như một phần của chiến dịch quảng cáo, doanh nghiệp phải xin phép và trả tiền bản quyền cho tác giả, nếu không sẽ bị coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả, trừ trường hợp tác phẩm đã hết thời hạn bảo hộ quyền tài sản.

Do đó, VCD thấy rằng việc tuân thủ các quy định về bản quyền âm nhạc trong quảng cáo không chỉ bảo vệ quyền lợi của các tác giả mà còn giúp bạn tránh các rủi ro pháp lý. Điều này đảm bảo rằng âm nhạc được sử dụng trong quảng cáo mang lại hiệu quả tốt nhất và tôn trọng các quyền sở hữu trí tuệ.

Nhà sản xuất có quyền gì đối với bản ghi âm ghi hình

Quyền liên quan là một hình thức khác của pháp luật sở hữu trí tuệ nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu. Đối tượng bảo hộ của quyền liên quan cũng thuộc hầu hết các lĩnh vực. Bản ghi âm, ghi hình là một trong những đối tượng thuộc phạm vi bảo hộ của quyền liên quan. Tuy nhiên, không phải tất cả các bản ghi âm, ghi hình được tạo ra đều được pháp luật Việt Nam bảo hộ. Vậy pháp luật quy định như thế nào về quyền của nhà sản xuất đối với bản ghi âm ghi hình?. Hãy theo dõi bài viết “Nhà sản xuất có quyền gì đối với bản ghi âm ghi hình” dưới đây của VCD.

1. Quyền của nhà sản xuất đối với bản ghi âm ghi hình là gì

Bản ghi âm, ghi hình: Theo Nghị định 17/2023/NĐ-CP có đưa ra cách hiểu vê bản ghi âm, ghi hình như sau: Bản ghi âm, ghi hình là bản định hình các âm thanh, hình ảnh của cuộc biểu diễn hoặc các âm thanh, hình ảnh khác hoặc việc định hình sự tái hiện lại các âm thanh, hình ảnh không phải dưới hình thức định hình gắn với tác phẩm điện ảnh hoặc tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự. Bản ghi âm, ghi hình có thể là bản ghi nhằm mục đích phổ biến tin tức trên dịch vụ phát thanh, truyền hình, không gian mạng; bản ghi chương trình biểu diễn nghệ thuật; bản ghi lại hoạt động của một hoặc nhiều người, mô tả các sự kiện, tình huống hoặc chương trình thực tế.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 16 Luật sở hữu trí tuệ 2005 thì nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình là tổ chức, cá nhân định hình lần đầu âm thanh, hình ảnh của cuộc biểu diễn hoặc các âm thanh, hình ảnh khác.

Như vậy, quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được hiểu là các quyền mà nhà sản xuất có được đối với các sản phẩm mà họ đã tạo ra, bao gồm các bản ghi âm (như album nhạc, bài hát) và bản ghi hình (như video ca nhạc, phim ảnh). Các quyền này được pháp luật công nhận và bảo vệ, nhằm giúp nhà sản xuất kiểm soát việc sử dụng và phân phối các sản phẩm của mình. Quyền này thường bao gồm quyền sao chép, phân phối, trình diễn công cộng, phát sóng, và tạo ra các tác phẩm phái sinh từ bản ghi âm, ghi hình đó.

Nhà sản xuất có quyền gì đối với bản ghi âm ghi hình

2. Quyền của nhà sản xuất đối với bản ghi âm ghi hình

Nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình có độc quyền thực hiện hoặc cho phép tổ chức, cá nhân khác thực hiện các quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật Sở hữu trí tuệ  sau đây:

a) Sao chép toàn bộ hoặc một phần bản ghi âm, ghi hình của mình bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, trừ trường hợp quy định tại điểm a khoản 3 Điều này;

b) Phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng thông qua bán hoặc hình thức chuyển giao quyền sở hữu khác đối với bản gốc, bản sao bản ghi âm, ghi hình của mình dưới dạng hữu hình, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 Điều này;

c) Cho thuê thương mại tới công chúng bản gốc, bản sao bản ghi âm, ghi hình của mình, kể cả sau khi được phân phối bởi nhà sản xuất hoặc với sự cho phép của nhà sản xuất;

d) Phát sóng, truyền đạt đến công chúng bản ghi âm, ghi hình của mình, bao gồm cả cung cấp tới công chúng bản ghi âm, ghi hình theo cách mà công chúng có thể tiếp cận tại địa điểm và thời gian do họ lựa chọn.

  • Lưu ý: Tại quy định khoản 2 Điều 30 Luật Sở hữu trí tuệ  tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền theo quy định nêu trên tại Mục này phải:

+ Được sự cho phép của chủ sở hữu quyền đối với bản ghi âm, ghi hình;

+ Tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền nêu trên phải được sự cho phép của chủ sở hữu quyền đối với bản ghi âm, ghi hình và trả tiền bản quyền, các quyền lợi vật chất khác (nếu có) cho chủ sở hữu quyền đối với bản ghi âm, ghi hình theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận trong trường hợp pháp luật không quy định, trừ các trường hợp sau đây:

  • Sao chép bản ghi âm, ghi hình chỉ để thực hiện các quyền khác theo quy định của Luật này; sao chép tạm thời theo một quy trình công nghệ, trong quá trình hoạt động của các thiết bị để truyền phát trong một mạng lưới giữa các bên thứ ba thông qua trung gian hoặc sử dụng hợp pháp bản ghi âm, ghi hình, không có mục đích kinh tế độc lập và bản sao bị tự động xóa bỏ, không có khả năng phục hồi lại;
  • Phân phối lần tiếp theo, nhập khẩu để phân phối đối với bản gốc, bản sao bản ghi âm, ghi hình đã được chủ sở hữu quyền thực hiện hoặc cho phép thực hiện việc phân phối.
  • Thuộc một trong các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả, trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả dành cho người khuyết tật và giới hạn quyền tác giả quy định tại Luật sở hữu trí tuệ.
  • Thuộc một trong các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền liên quan và giới hạn quyền liên quan quy định tại Luật sở hữu trí tuệ.
  • Thời gian bảo hộ quyền của nhà sản xuất đối với bản ghi âm ghi hình theo Khoản 2 Điều 34 Luật Sở hữu trí tuệ:
  • Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ năm mươi năm tính từ năm tiếp theo năm công bố hoặc năm mươi năm kể từ năm tiếp theo năm bản ghi âm, ghi hình được định hình nếu bản ghi âm, ghi hình chưa được công bố.

Như vậy, theo quy định, thời hạn bảo hộ quyền liên quan của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình là năm mươi năm tính từ năm tiếp theo năm công bố hoặc năm mươi năm kể từ năm tiếp theo năm bản ghi âm, ghi hình được định hình nếu bản ghi âm, ghi hình chưa được công bố. Thời hạn bảo hộ này sẽ chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ các quyền liên quan.

Thừa kế bản quyền âm nhạc khi nhạc sĩ qua đời

Quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế là quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo vệ. Người dân có quyền quyết định về việc để lại tài sản của mình sau khi qua đời và quyền thừa kế tài sản từ người đã qua đời.Tài sản thừa kế có thể bao gồm các loại tài sản như tiền mặt, tài sản vật chất (như nhà cửa, đất đai, phương tiện giao thông), giấy tờ có giá trị (như chứng chỉ cổ phần, hợp đồng, giấy tờ tài sản), quyền sở hữu trí tuệ (như bản quyền, nhãn hiệu, bằng sáng chế), và các loại tài sản khác. Vậy, pháp luật quy định về Thừa kế bản quyền âm nhạc khi nhạc sĩ qua đời như thế nào?. Hãy theo dõi bài viết của VCD dưới đây.

1. Thừa kế bản quyền âm nhạc là gì

Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 14 Luật Sở Hữu trí tuệ 2005 thì tác phẩm âm nhạc là một trong các loại hình tác phẩm nghệ thuật được bảo hộ quyền tác giả. Dẫn chiếu đến khoản 4 Điều 6 Nghị định 17/2023/NĐ-CP thì “Tác phẩm âm nhạc quy định tại điểm d khoản 1 Điều 14 của Luật Sở hữu trí tuệ là tác phẩm được thể hiện dưới dạng nhạc nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn.”

Tác phẩm âm nhạc được bảo hộ quyền tác giả kể từ thời điểm tác phẩm được tạo ra dưới hình thức có thể ghi nhận được ở dạng vật chất, hình thức ghi nhân có thể là trên giấy, đánh máy hoặc một hình thức ghi nhận khác, Như vậy, khi nhạc sĩ chỉ mới suy nghĩ lời nhạc ở trong đầu mà chưa thể hiện ở hình thức vật chất, thì bài nhạc chưa được quyền tác giả bảo hộ.

Bản quyền âm nhạc được hiểu là quyền của tác giả đối với tác phẩm được thể hiện dưới dạng nhạc nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác hoặc được định hình trên bản ghi âm, ghi hình có hoặc không có lời, không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn kể từ thời điểm mà tác giả tạo ra tác phẩm.

Do đó, thừa kế bản quyền âm nhạc là quá trình chuyển giao các quyền liên quan đến tác phẩm âm nhạc từ nhạc sĩ (tác giả) đã qua đời sang người thừa kế hợp pháp. Quá trình này được điều chỉnh bởi Luật Sở hữu trí tuệ và các quy định về thừa kế trong Bộ luật Dân sự. Khi thừa kế bản quyền âm nhạc, người thừa kế sẽ nhận được các quyền tài sản và một số quyền nhân thân liên quan đến tác phẩm âm nhạc đó.

Thừa kế bản quyền âm nhạc khi nhạc sĩ qua đời

2. Quy định của pháp luật về thừa kế bản quyền âm nhạc khi nhạc sĩ qua đời

Khi một nhạc sĩ qua đời, quyền tác giả của các bài hát do nhạc sĩ đó sáng tác sẽ được thừa kế theo quy định của pháp luật.

  • Thừa kế theo di chúc: Nếu nhạc sĩ có lập di chúc, quyền tác giả sẽ được chuyển giao theo nội dung của di chúc. Di chúc phải tuân theo quy định của pháp luật về hình thức và nội dung để có hiệu lực pháp lý.
  • Thừa kế theo pháp luật: Nếu nhạc sĩ không để lại di chúc hoặc di chúc không hợp pháp, quyền tác giả sẽ được thừa kế theo quy định của pháp luật về thừa kế. Theo Bộ luật Dân sự Việt Nam, những người thừa kế theo pháp luật bao gồm:
  • Hàng thừa kế thứ nhất: vợ/chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
  • Hàng thừa kế thứ hai: ông bà nội, ông bà ngoại, anh chị em ruột của người chết, cháu ruột mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
  • Hàng thừa kế thứ ba: cụ nội, cụ ngoại của người chết, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

   Căn cứ vào Điều 40 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định về thừa kế quyền tác giả như sau: Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân được thừa kế quyền tác giả theo quy định của pháp luật về thừa kế là chủ sở hữu các quyền quy định tại Điều 20 và khoản 3 Điều 19 của Luật này.

– Cụ thể, tại Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, được sửa đổi bởi khoản 5 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 (Có hiệu lực từ 01/01/2023) quy định quyền nhân thân như sau:

Quyền nhân thân bao gồm:

1. Đặt tên cho tác phẩm.

Tác giả có quyền chuyển quyền sử dụng quyền đặt tên tác phẩm cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao quyền tài sản quy định tại khoản 1 Điều 20 của Luật này;

2. Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;

3. Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;

4. Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc; không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

– Theo Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, được sửa đổi bởi khoản 5 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 (Có hiệu lực từ 01/01/2023) quy định về quyền tài sản như sau:

1. Quyền tài sản bao gồm:

a) Làm tác phẩm phái sinh;

b) Biểu diễn tác phẩm trước công chúng trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các bản ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào tại địa điểm mà công chúng có thể tiếp cận được nhưng công chúng không thể tự do lựa chọn thời gian và từng phần tác phẩm;

3. Chủ sở hữu quyền tác giả không có quyền ngăn cấm tổ chức, cá nhân khác thực hiện các hành vi sau đây:

a) Sao chép tác phẩm chỉ để thực hiện các quyền khác theo quy định của Luật này; sao chép tạm thời theo một quy trình công nghệ, trong quá trình hoạt động của các thiết bị để truyền phát trong một mạng lưới giữa các bên thứ ba thông qua trung gian hoặc sử dụng hợp pháp tác phẩm, không có mục đích kinh tế độc lập và bản sao bị tự động xóa bỏ, không có khả năng phục hồi lại;

b) Phân phối lần tiếp theo, nhập khẩu để phân phối đối với bản gốc, bản sao tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện hoặc cho phép thực hiện việc phân phối.

Như vậy, từ quy định trên thì người thừa kế sẽ được thừa kế các quyền tác giả như sau:

+ Quyền nhân thân: Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; (các quyền còn lại là quyền nhân thân gắn liền với tác giả nên không thể thừa kế).

+ Quyền tài sản như quy định trên.

Thông thường, quyền tác giả sẽ được chuyển giao cho người thừa kế theo di chúc của nhạc sĩ hoặc theo quy định của pháp luật về di sản. Người thừa kế có thể là người trong gia đình nhạc sĩ, như con cái, vợ/chồng hoặc người bạn thân. Trong một số trường hợp, nhạc sĩ có thể chỉ định một người được ủy quyền để quản lý tác phẩm và quyền tác giả sau khi họ qua đời. Quyền tác giả cũng có thể được chuyển nhượng hoặc bán trong trường hợp nhạc sĩ đã lập di chúc hoặc thỏa thuận trước khi qua đời. Trong những trường hợp này, người mua hoặc nhận chuyển nhượng sẽ trở thành chủ sở hữu quyền tác giả.

– Tuy nhiên, người thừa kế chỉ được thực hiện các quyền tác giả được thừa kế trong thời hạn bảo hộ tác giả còn lại.  Căn cứ vào Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 thì thời hạn bảo hộ quyền tác giả (được sửa đổi bởi khoản 8 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2009 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2010) được quy định như sau:

Thời hạn bảo hộ quyền tác giả

1. Quyền nhân thân quy định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều 19 của Luật này được bảo hộ vô thời hạn.

2. Quyền nhân thân quy định tại khoản 3 Điều 19 và quyền tài sản quy định tại Điều 20 của Luật này có thời hạn bảo hộ như sau:

….

b) Tác phẩm không thuộc loại hình quy định tại điểm a khoản này có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết;

c) Thời hạn bảo hộ quy định tại điểm a và điểm b khoản này chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả.

Như vậy, theo quy định trên thì những yếu tố sau đây sẽ được bảo hộ mãi mãi bao gồm:

+ Tên của tác phẩm;

+ Tên thật hoặc bút danh của tác giả;

+ Sự toàn vẹn của tác phẩm;

Ngoài những yếu tố trên, tác phẩm sẽ có thời gian bảo hộ hữu hạn đối với tác phẩm âm nhạc là 50 năm tiếp theo năm tác giả chết. Như vậy, VCD thấy rằng  thừa kế bản quyền âm nhạc là một vấn đề pháp lý quan trọng nhằm đảm bảo quyền lợi của tác giả và người thừa kế. Việc tuân thủ các quy định pháp luật về thừa kế giúp bảo vệ và phát triển các giá trị văn hóa, nghệ thuật, đồng thời đảm bảo sự công bằng và minh bạch trong việc sử dụng

Hát trong liên hoan cơ quan có phải trả tiền bản quyền không?

Trong nền văn hóa Việt Nam, hát và âm nhạc đóng vai trò quan trọng trong các sự kiện văn hóa, gia đình và cộng đồng. Hát trong liên hoan cơ quan cũng là một hoạt động phổ biến và được ưa chuộng ở Việt Nam.Trong các liên hoan cơ quan, các tiết mục hát và biểu diễn âm nhạc thường được tổ chức như một phần của chương trình giải trí hoặc sự kiện nội bộ. Nhân viên có thể thể hiện kỹ năng hát solo, hợp ca, hoặc tham gia các nhóm nhạc, ban nhạc, hoặc đội hát karaoke thể hiện tài năng âm nhạc của mình và tạo ra không khí vui tươi, sôi động. Tuy nhiên mọi người thường không chú trọng việc hát như vậy có bị vi phạm bản quyền không?. Bài viết “Hát trong liên hoan cơ quan có phải trả tiền bản quyền không?” của VCD dưới đây sẽ giải đáp thắc mắc này.

1. Quy định của pháp luật về bản quyền âm nhạc

Quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc là một dạng quyền tác giả nói chung, được quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, được sửa đổi bổ sung các năm 2009, 2019, 2022 (Sau đây gọi tắt là “Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã sửa đổi, bổ sung”) như sau: “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”.

Như vậy, quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm âm nhạc do mình sáng tác hoặc sở hữu, bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm âm nhạc đó.Về nguyên tắc, quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc được bảo hộ phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo mà không phụ thuộc vào việc đã đăng ký hay chưa đăng ký.

Tác phẩm âm nhạc thuộc về công chúng, hay còn gọi là “tác phẩm thuộc phạm vi công cộng” (public domain), là những tác phẩm mà quyền tác giả không còn được bảo hộ bởi luật sở hữu trí tuệ. Điều này có thể xảy ra vì nhiều lý do, bao gồm hết thời hạn bảo hộ quyền tác giả hoặc tác giả tự nguyện từ bỏ quyền tác giả. Khi một tác phẩm âm nhạc thuộc về công chúng, bất kỳ ai cũng có thể sử dụng, sao chép, biểu diễn, và phân phối tác phẩm đó mà không cần xin phép hoặc trả tiền bản quyền.

Hát trong liên hoan cơ quan có phải trả tiền bản quyền không?

2. Hát trong liên hoan cơ quan có phải trả tiền bản quyền không

“Hát trong liên hoan cơ quan” có thể hiểu là việc biểu diễn âm nhạc hoặc hát karaoke trong một sự kiện liên hoan của một cơ quan, tổ chức hoặc doanh nghiệp. Thông thường, trong một liên hoan cơ quan, nhân viên và thành viên của cơ quan sẽ tham gia biểu diễn các tiết mục âm nhạc để giải trí và tạo không khí vui vẻ cho sự kiện.

Hát trong liên hoan cơ quan có phải trả tiền bản quyền hay không phụ thuộc vào một số yếu tố, bao gồm mục đích và phạm vi sử dụng tác phẩm âm nhạc:

  • Phạm vi sử dụng không vì mục đích thương mại:

Nếu việc hát trong liên hoan cơ quan chỉ là hoạt động nội bộ, không có mục đích thương mại, và không thu phí từ người tham dự, thì theo thông lệ, có thể không cần phải trả tiền bản quyền. Đây là vì mục đích sử dụng ở đây là phi thương mại, mang tính chất giải trí, gắn kết nội bộ.

Tuy nhiên, nếu sử dụng các thiết bị, phần mềm, hoặc dịch vụ karaoke mà bản thân các dịch vụ này đã bao gồm phí bản quyền, thì có thể không cần trả thêm phí bản quyền riêng lẻ cho từng bài hát.

  • Phạm vi sử dụng vì mục đích thương mại:

Nếu buổi liên hoan có thu phí từ người tham dự hoặc có mục đích thương mại nào khác, thì cần phải trả tiền bản quyền. Ví dụ, nếu sự kiện được tổ chức tại một địa điểm kinh doanh karaoke hoặc có nhà tài trợ, thì cơ quan tổ chức có thể cần ký hợp đồng và trả tiền bản quyền cho việc sử dụng các bài hát có bản quyền.

Do đó, nếu một bài hát chưa phải là tác phẩm thuộc về công chúng thì phải trả tiền bản quyền cho tác giả nếu thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào.

Tác phẩm thuộc về công chúng là những tác phẩm đã kết thúc thời hiệu bảo hộ theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019). Luật Sở hữu trí tuệ ở Việt Nam có quy định về thời hạn bảo hộ quyền tác giả, và quy định về thời hạn bảo hộ đối với từng loại hình cụ thể sẽ có những điểm khác nhau. Nhưng chung quy lại, sau khi kết thúc thời hạn bảo hộ, tác phẩm sẽ thuộc về công chúng và mọi người được phép khai thác, sử dụng tác phẩm đó với điều kiện không xâm phạm tới quyền nhân thân của tác giả.

Theo quy định của pháp luật thì quyền tác giả sẽ được phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định mà không cần phải đăng ký quyền tác giả, chính vì thế nó có đầy đủ các quyền.

Tuy tác phẩm công chúng chúng ta có quyền sử dụng mà không cần phải xin phép nhưng khi sử dụng cũng cần phải lưu ý một số vấn đề.

Cụ thể tại Khoản 2 Điều 43 Luật Sở hữu trí tuệ quy định điều kiện khi mọi tổ chức, cá nhân có thể sử dụng tác phẩm này như sau:

“2. Mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền sử dụng tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này nhưng phải tôn trọng các quyền nhân thân của tác giả quy định tại Điều 19 của Luật này”.

Quyền nhân thân của tác giả theo Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ bao gồm các quyền:

  • Đặt tên cho tác phẩm
  • Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm
  • Được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng
  • Được công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm
  • Không cho người khác sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

 Như vậy, khi mọi tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm thuộc về công chúng thì phải tôn trọng quyên nhân thân đã nêu trên của tác giả.

Bên cạnh đó, nếu việc sử dụng tác phẩm này mà gây phương hại tới quyền nhân thân của tác giả thì tổ chức, cá nhân vi phạm sẽ bị:

  • Yêu cầu chấm dứt hành vi xâm phạm
  • Xin lỗi, cải chính công khai
  • Bồi thường thiệt hại
  • Thậm chí có thể bị khiếu nại, tố cáo tùy theo tính chất, mức độ xâm phạm và bị xử lý hành chính, dân sự hoặc hình sự.

Qua đây VCD thấy rằng dù tác phẩm âm nhạc thuộc về công chúng, bản ghi âm hoặc các bản phối lại hiện đại của tác phẩm đó có thể vẫn được bảo hộ bởi quyền liên quan (quyền của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, và tổ chức phát sóng).Tác phẩm âm nhạc thuộc về công chúng là một phần quan trọng của di sản văn hóa và nghệ thuật, cho phép mọi người tiếp cận, sử dụng, và phát triển dựa trên những giá trị đã có. Việc hiểu và xác định chính xác các tác phẩm thuộc về công chúng giúp đảm bảo tuân thủ pháp luật và tận dụng hiệu quả các tài nguyên văn hóa.

Kinh doanh hát karaoke có phải trả tiền bản quyền?

Ở Việt Nam, khi một bài hát nào mới vừa phát hành là ở các cửa hàng, quán cafe, nhà hàng,… đều có thể sử dụng bài hát để phát lại trong quán của mình. Đặc biệt là các quán karaoke hiện nay đều sử dụng bài để kinh doanh, vậy khi sử dụng các bài hát đó thì có phải trả tiền bản quyền cho tác giả bài hát hay không? Hãy theo dõi bài viết dưới đây của VCD.

1. Quy định về Bản quyền âm nhạc

Tác phẩm âm nhạc là tác phẩm được thể hiện dưới dạng nhạc nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác hoặc được định hình trên bản ghi âm, ghi hình có hoặc không có lời, không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn (Điều 10 nghị định 22/2018/NĐ-CP).

Còn về bản ghi âm, ghi hình là bản định hình các âm thanh, hình ảnh của cuộc biểu diễn hoặc các âm thanh, hình ảnh khác hoặc việc định hình sự tái hiện lại các âm thanh, hình ảnh không phải dưới hình thức định hình gắn với tác phẩm điện ảnh hoặc tác phẩm được đọc được tạo ra theo phương pháp tương tự.

Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009) bản ghi âm, ghi hình bài hát là đối tượng được bảo hộ quyền liên quan. Những tổ chức, cá nhân khi sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã công bố trong hoạt động kinh doanh, thương mại không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao theo thỏa thuận cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng kể từ khi sử dụng (khoản 2 Điều 33 Luật Sở hữu trí tuệ).

Sử dụng bản ghi âm, ghi hình các bài hát là việc tổ chức, cá nhân sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình đó để sử dụng tại nhà hàng, khách sạn, cửa hàng, siêu thị; cơ sở kinh doanh dịch vụ karaoke, dịch vụ bưu chính, viễn thông, môi trường kỹ thuật số; trong các hoạt động du lịch, hàng không, giao thông công cộng.

Karaoke là hình thức giải trí hát lại lời bài hát trên nền nhạc đã được thu sẵn, lời bài hát sẽ được thể hiện trên một màn hình. Về bản chất, đối tượng kinh doanh của dịch vụ karaoke là bản ghi âm, ghi hình một cuộc biểu diện của các tác phẩm âm nhạc và đây đều là những đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, trên thực tế trong hoạt động kinh doanh karaoke, những chủ thể kinh doanh đều không để tâm đến việc thanh toán tiền nhuận bút, thù lao cho các chủ thể sở hữu quyền sở hữu trí tuệ.

Kinh doanh hát karaoke có phải trả tiền bản quyền?

2. Kinh doanh hát karaoke có phải trả tiền bản quyền không

Thực tế hiện nay trong hoạt động kinh doanh karaoke đặc biệt là các chủ chủ thể kinh doanh có quy mô nhỏ thường không chú trọng đến việc tuân thủ quy định bản quyền, việc sử dụng các bài hát mà không trả tiền bản quyền vẫn diễn ra.

Ngoài hoạt động karaoke truyền thống tức là sao chép các bài hát vào các đĩa CD hay một hệ thống lưu trữ cố định thì việc kinh doanh Karaoke hiện nay còn dựa trên các bản ghi âm và ghi hình trực tuyến từ các trang web như YouTube, nhaccuatui và các nền tảng trực tuyến khác đã trở nên phổ biến.

Tuy nhiên, đa số người kinh doanh Karaoke tại Việt Nam thường chỉ chú trọng đáp ứng các điều kiện hoạt động kinh doanh karaoke theo quy định pháp luật, chẳng hạn như thành lập doanh nghiệp hộ kinh doanh và tuân thủ các quy định về phòng cháy nổ và diện tích phòng hát tối thiểu.

Do đó, việc sử dụng các bản ghi trong kinh doanh karaoke thuộc trường hợp sử dụng tác phẩm bản ghi âm ghi hình đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao theo quy định tại Điều 26, Điều 33 Luật sở hữu trí tuệ.

Cụ thể tại khoản 2 Điều 43 Nghị định 22/2018/NĐ-CP quy định:

“Tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng theo quy định tại khoản một điều 26, khoản một và khoản hai điều ba của luật sở hữu trí tuệ có nghĩa vụ liên lạc trực tiếp với chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan hoặc tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan về việc khai thác, sử dụng. Trường hợp không liên lạc trực tiếp được với chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan thì tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tác phẩm bản ghi âm ghi hình, chương trình phát sóng, thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng”.

Cùng với đó, khoản 1 Điều 45 Nghị định 22/2018/NĐ-CP cũng quy định cụ thể hơn về trường hợp khai thác, sử dụng bản ghi âm, ghi hình: “Tổ chức, cá nhân sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 33 của Luật sở hữu trí tuệ phải trả tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất cho chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan.”

Theo đó, tuy không phải xin phép tác giả nhưng khi sử dụng bài hát tại các quán karaoke thì họ sẽ phải trả tiền nhuận bút, thù lao hoặc quyền lợi vật chất khác cho nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình (hoặc cá nhân, tổ chức đại diện cho tác giả) theo thỏa thuận của các bên hoặc nếu không có thỏa thuận thì theo biểu giá và phương thức thanh toán do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành.

Nếu tổ chức, cá nhân sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã công bố nhằm mục đích thương mại trong cơ sở kinh doanh dịch vụ karaoke, dịch vụ bưu chính viễn thông, môi trường kỹ thuật số mà không trả tiền sử dụng cho chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan theo quy định sẽ bị phạt tiền từ 15.000.000 đến 25.000.000 đồng (theo Khoản 3 Điều 29 Nghị định 131/2013/NĐ-CP).

Tuy nhiên trên thực tế VCD thấy rằng để thu phí bản quyền tác giả và tác quyền bản ghi âm rất là khó, bởi có rất nhiều cơ sở sử dụng và rất khó kiểm soát. Mức phí thu cũng chưa được rõ ràng và hợp lý khiến cho công tác thu phí bản quyền càng khó khăn hơn. Do đó, các tổ chức cá nhân kinh doanh karaoke có thể tìm đến các tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan được pháp luật công nhận – là các tổ chức được nghệ sĩ ủy quyền tác quyền âm nhạc, để nhanh chóng thực hiện các nghĩa vụ thanh toán nhuận bút, thù lao cho việc sử dụng vẫn ghi trong hoạt động kinh doanh của mình.

Bản quyền âm nhạc trong tác phẩm điện ảnh

Tiềm năng và sự phát triển của thị trường điện ảnh Việt Nam đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đối tác trong và ngoài nước, và nó có thể tiếp tục phát triển mạnh trong xã hội và đem lại giá trị văn hóa của một quốc gia. Âm nhạc có thể tạo ra một loạt cảm xúc và truyền tải thông điệp sâu sắc trong tác phẩm điện ảnh. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc làm tăng tính chất lãng mạn, hài hước, căng thẳng hoặc xúc động của một cảnh quan trọng trong tác phẩm. Vậy bản quyền âm nhạc trong tác phẩm điện ảnh được pháp luật quy định như thế nào?. Hãy theo dõi bài viết của VCD dưới đây.

1. Bản quyền âm nhạc trong tác phẩm điện ảnh

Định nghĩa tại khoản 1 Điều 12 Nghị đinh 22/2018/NĐ-CP, tác phẩm điện ảnh là tác phẩm được thể hiện bằng hình ảnh động kết hợp hoặc không kết hợp với âm thanh và các phương tiện khác theo nguyên tắc của ngôn ngữ điện ảnh. Hình ảnh tĩnh được lấy ra từ một tác phẩm điện ảnh là một phần của tác phẩm điện ảnh đó.

Bản quyền âm nhạc trong tác phẩm điện ảnh” là thuật ngữ để chỉ quyền sở hữu và quyền sử dụng âm nhạc trong một tác phẩm điện ảnh. Nó ám chỉ các quyền được cấp phép và bảo vệ pháp lý liên quan đến việc sử dụng âm nhạc trong một bộ phim. Nó cũng bao gồm các quyền của tác giả âm nhạc đối với việc sử dụng, sao chép, phân phối, biểu diễn, và truyền đạt tác phẩm của họ trong một bộ phim.

Quyền sở hữu bản quyền âm nhạc trong tác phẩm điện ảnh thuộc về người sáng tác âm nhạc hoặc chủ sở hữu bản quyền âm nhạc. Những người này có quyền kiểm soát việc sao chép, phân phối, trình diễn công khai, thu phí và tạo các phiên bản dựa trên âm nhạc của họ.

Quyền sử dụng âm nhạc trong tác phẩm điện ảnh là quyền được cấp phép để sử dụng âm nhạc trong phim. Các nhà sản xuất phim phải xin phép từ chủ sở hữu bản quyền âm nhạc hoặc từ các công ty đại diện bản quyền để sử dụng âm nhạc trong tác phẩm của họ. Quyền sử dụng âm nhạc có thể bao gồm việc sử dụng trong phim, trailer, quảng cáo hoặc các hình thức khác liên quan đến tác phẩm điện ảnh.

Bản quyền âm nhạc trong tác phẩm điện ảnh

2. Quy định của pháp luật về bản quyền âm nhạc trong tác phẩm điện ảnh

Mục đích Pháp luật có quy định bản quyền âm nhạc trong tác phẩm điện ảnh để:

  • Bảo vệ quyền lợi của tác giả: Đảm bảo tác giả âm nhạc nhận được sự công nhận và thù lao xứng đáng cho công sức sáng tạo của họ.
  • Khuyến khích sáng tạo: Tạo động lực cho các nhà sáng tạo âm nhạc tiếp tục đóng góp cho nền văn hóa và nghệ thuật.
  • Đảm bảo tính hợp pháp: Giúp các nhà sản xuất phim tuân thủ luật pháp về sở hữu trí tuệ, tránh các tranh chấp pháp lý liên quan đến việc sử dụng trái phép tác phẩm âm nhạc.

Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) Việt Nam, khi tác phẩm âm nhạc được sử dụng trong phim, các quyền tài sản thuộc quyền tác giả sẽ phát sinh, và người sử dụng tác phẩm (nhà sản xuất phim) sẽ có các nghĩa vụ tương ứng. Các quyền tài sản này bao gồm:

a. Quyền sao chép tác phẩm:

Tại điểm c khoản 1 Điều 20 Luật SHTT, quy định là: “Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp toàn bộ hoặc một phần tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào…” Như vậy,tác giả có quyền sao chép tác phẩm âm nhạc của mình dưới mọi hình thức, bao gồm sao chép tác phẩm vào phim.

Nhà sản xuất phim phải xin phép và trả tiền bản quyền cho việc sao chép tác phẩm âm nhạc vào phim. Âm nhạc được sử dụng trong phim có thể được xin phép thông qua hai hình thức, đặt hàng (thuê) tác giả viết mới một ca khúc hoặc xin phép chủ sở hữu để được sử dụng ca khúc đã có sẵn để sản xuất phim. Trong cả hai trường hợp, việc xin phép và quản lý bản quyền âm nhạc trong phim là rất quan trọng để đảm bảo tuân thủ pháp luật và bảo vệ quyền lợi của tác giả và các chủ sở hữu tác quyền.

Nếu các đơn vị phát hành trực tuyến cho phép người dùng tải về để xem sẽ làm phát sinh “quyền sao chép”. Các rạp khi trình chiếu phim thì sẽ phát sinh nghĩa vụ đối với “quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng”, còn khi bộ phim được phát sóng trên các kênh truyền hình, các nền tảng truyền hình trực tuyến thì sẽ phát sinh “quyền phát sóng, quyền truyền đạt”.

Khi bộ phim được phát hành, phân phối và trình chiếu ở các môi trường khác nhau, cũng như trên các nền tảng trực tuyến và các đơn vị phát sóng, các quyền liên quan đến âm nhạc trong phim sẽ tiếp tục phát sinh. Việc phát hành bộ phim trên các nền tảng này đòi hỏi người sở hữu quyền tác giả hoặc quản lý bản quyền âm nhạc thu phí tương ứng.

b. Quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng

Tác giả có quyền biểu diễn tác phẩm âm nhạc của mình trước công chúng. Tại điểm b khoản 1 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ, cụ thể là: “Biểu diễn tác phẩm trước công chúng trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các bản ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào tại địa điểm mà công chúng có thể tiếp cận được nhưng công chúng không thể tự do lựa chọn thời gian và từng phần tác phẩm;”.

Để bộ phim có thể đến với công chúng, không thể bỏ qua vai trò của các rạp chiếu phim, là điểm đến của các bộ phim điện ảnh và cũng là nơi công chúng được tiếp cận tác phẩm điện ảnh. Khi bộ phim được trình chiếu tại rạp, các ca khúc đã được sử dụng trong phim có thể được phát trong quá trình chiếu để tạo không khí và truyền đạt thông điệp của phim đến khán giả,có thể được phát trong không gian sảnh chờ, nơi mua vé và các khu vực khác trong rạp phim để tạo không gian âm nhạc liên quan đến phim ngoài ra còn được sử dụng trong trailer, teaser và các hoạt động quảng bá phim…

Như đã phân tích về quyền sao chép ở trên, có thể thấy được sự khác biệt giữa mục đích sử dụng tác phẩm âm nhạc của nhà sản xuất và các rạp phim. Cả hai bên có mục đích sử dụng khác nhau  có quyền và trách nhiệm riêng: một bên là đơn vị sử dụng tác phẩm âm nhạc để tạo ra một sản phẩm/tác phẩm điện ảnh và một bên là đơn vị trình chiếu, biểu diễn tác phẩm âm nhạc cùng với tác phẩm điện ảnh. Việc xác định rõ vai trò và mục đích sử dụng tác phẩm âm nhạc giữa nhà sản xuất phim và các rạp chiếu phim là quan trọng để đảm bảo việc quản lý bản quyền và thu phí được thực hiện đúng và công bằng.

c. Quyền phát sóng, truyền đạt tác phẩm đến công chúng

Tại điểm đ khoản 1 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ, quy định là: “Phát sóng, truyền đạt đến công chúng tác phẩm bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác…”. Khi các tác phẩm điện ảnh được trình chiếu, phát trên truyền hình sẽ làm phát sinh quyền phát sóng, truyền đạt đến công chúng tác phẩm đối với các tác phẩm âm nhạc được sử dụng trong phim.

Sự phát triển của các nền tảng truyền hình OTT (Over-The-Top) và các dịch vụ phát sóng trực tuyến đã tạo ra một môi trường mới cho việc tiếp cận và tiêu thụ nội dung giải trí. Điều này đặt ra những thách thức mới trong việc bảo vệ quyền tác giả và quản lý bản quyền, bao gồm cả tác phẩm âm nhạc được sử dụng trong phim. Sự thuận tiện trong việc truy cập phim, chương trình truyền hình đã làm biến đổi cách khán giả tương tác với nội dung, và cuộc cách mạng số hóa này cũng mang đến những thách thức chưa từng có trong việc bảo mật và bảo vệ quyền tác giả, yêu cầu đặt ra là cần phải có các giải pháp mới để bảo vệ nội dung khỏi hàng loạt các rủi ro về xâm phạm quyền tác giả, không chỉ là đối với tác phẩm điện ảnh mà còn với tác phẩm âm nhạc được sử dụng trong phim.

Như vậy, quy định pháp luật về quyền tác giả âm nhạc trong lĩnh vực điện ảnh ở Việt Nam đã giúp bảo vệ quyền lợi của người sáng tác âm nhạc và đảm bảo sự công bằng trong việc sử dụng tác phẩm âm nhạc trong phim. Việc tuân thủ các quy định này là quan trọng để đảm bảo việc sử dụng âm nhạc trong điện ảnh được thực hiện đúng luật và đảm bảo quyền lợi của các tác giả âm nhạc.

Ca sĩ có được biểu diễn bài hát độc quyền của ca sĩ khác không?

Ca sĩ biểu diễn ca khúc “hit” của người khác mà không xin phép, thậm chí vô tư mang đi biểu diễn với mục đích thương mại, đã gây nhiều tranh cãi và trở thành “chuyện cơm bữa” đầy nhức nhối trong giới giải trí Việt thời gian qua. Việc chưa hiểu rõ và chưa nắm được luật đã khiến cho nghệ sĩ vướng phải nhiều ” lùm xùm” không hay từ  cư dân mạng cũng như vi phạm pháp luật Sở hữu trĩ tuệ về quyền Tác giả. Vậy,Ca sĩ có được biểu diễn bài hát độc quyền của ca sĩ khác không?. Hãy theo dõi bài viết dưới đây của VCD.

1. Biểu diễn độc quyền bài hát là gì

Luật Sở hữu trí tuệ 2005, qua Điều 13, đã đưa ra các quy định cụ thể về quyền tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm được bảo hộ. Theo đó, Tổ chức và cá nhân có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả bao gồm người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả, được quy định chi tiết từ Điều 37 đến Điều 42 của Luật này.

Tuy nhiên, Phát luật Sở hữu trí tuệ hiện hành chưa có khái niệm cụ thể nào về độc quyền bài hát nhưng có thể hiểu độc quyền bài hát của nghệ sĩ là quyền độc nhất và độc lập được cấp cho nghệ sĩ đó để kiểm soát việc biểu diễn và khai thác bài hát của mình. Điều này có nghĩa là nghệ sĩ đó là người duy nhất có quyền quyết định cách thức sử dụng, biểu diễn, thu âm, phát hành và phân phối bài hát của mình.

Biểu diễn độc quyền bài hát của một nghệ sĩ khác được hiểu là một ca sĩ hoặc nhóm nhạc biểu diễn một bài hát mà chỉ nghệ sĩ đó mới được phép biểu diễn. Và nghệ sĩ đó có quyền độc quyền để thể hiện bài hát đó trên sân khấu hoặc trong các sản phẩm âm nhạc của mình, và các nghệ sĩ khác cần phải có sự cho phép hoặc hợp đồng từ nghệ sĩ đó để biểu diễn bài hát đó.

Biểu diễn độc quyền bài hát là gì

2. Ca sĩ có được biểu diễn bài hát độc quyền của ca sĩ khác không

Theo điểm d khoản 1 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, được sửa đổi bởi khoản 5 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2009 và điểm a khoản 82 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 (Có hiệu lực từ 01/01/2023) quy định về các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả bao gồm tác phẩm âm nhạc.

Bên cạnh đó, căn cứ điểm g khoản 1 Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, được sửa đổi bởi khoản 6 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2009 và khoản 7 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 (Có hiệu lực từ 01/01/2023) quy định các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả.

Các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả  đã được quy định một cách cụ thể và minh bạch, đồng thời đảm bảo sự cân nhắc giữa quyền lợi của người sáng tạo và quyền lợi cộng đồng. Một trong những trường hợp ngoại lệ quan trọng được đề cập là việc sử dụng tác phẩm đã công bố mà không cần xin phép và trả tiền bản quyền. Tuy nhiên, để đảm bảo sự minh bạch và tôn trọng quyền tác giả, người sử dụng phải cung cấp thông tin đầy đủ về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm. Điều này không chỉ giúp bảo vệ danh dự và quyền lợi của tác giả mà còn thúc đẩy sự công bằng trong việc sử dụng tác phẩm đã công bố.

Luật cũng tập trung đảm bảo rằng việc sử dụng tác phẩm không phải là mâu thuẫn với quyền lợi của tác giả và không gây thiệt hại bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của họ. Điều này thể hiện sự cân nhắc và trung ương của pháp luật để duy trì sự cân bằng giữa quyền tác giả và quyền lợi cộng đồng. Đối với một số loại tác phẩm nhất định như tác phẩm kiến trúc, tác phẩm mỹ thuật, chương trình máy tính, việc sao chép không áp dụng theo quy định của điều này. Điều này nhấn mạnh sự đặc biệt của những loại tác phẩm này và giữ cho quyền tác giả của chúng được bảo vệ một cách đặc biệt.

Ngoài ra, việc yêu cầu thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm là một biện pháp đảm bảo tính minh bạch và tôn trọng quyền lợi của người sáng tạo. Điều này không chỉ làm tăng cường quản lý thông tin văn hóa mà còn giúp duy trì đạo đức và tôn trọng trong cộng đồng ng

Khi một ca sĩ biểu diễn một bài hát của một ca sĩ khác, nó được gọi là một bản cover. Một bản cover thường là việc biểu diễn lại một bài hát đã được phát hành trước đó bởi một nghệ sĩ khác. Nó có thể giống hoặc khác với phiên bản gốc, và điều này phụ thuộc vào cách mà người biểu diễn tạo ra sự biến đổi và sáng tạo trong việc trình bày bài hát. Một số bản cover có thể giữ nguyên phong cách và cấu trúc của phiên bản gốc, trong khi những bản khác có thể có sự thay đổi lớn về âm nhạc, phong cách, hoặc cả hai.

Luật đặt ra điều kiện rõ ràng cho việc bảo hộ tác phẩm phái sinh. Theo đó, tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ nếu không gây phương hại đến quyền tác giả của tác phẩm gốc. Điều này làm tôn lên nguyên tắc công bằng và bảo vệ cả quyền lợi của tác giả gốc và tác giả phái sinh.

Thực tế hiên nay có rất nhiều tin xung quanh “lùm xùm” nghệ sĩ “hát chùa” bài hát hit của ca sĩ khác. Ví dụ như: Hương Ly – ca sĩ được mệnh danh là “Thánh cover”, tuy nhiên Hương Ly cũng nhận nhiều ý kiến trái chiều về hát lại này. Một số khán giả cho rằng Hương Ly không tuân thủ bản quyền hay tác quyền khi “cứ thấy bài nào hot là cover”. Hương Ly từng dính lùm xùm  khi hai bên không thể thỏa thuận được quyền lợi trong việc cover.  Ngay sau đó, Hương Ly đã xin lỗi các nghệ sĩ độc quyền của bài hát và được chấp nhận. Chính vì vậy mà khi muốn biểu diễn bài hát của người khác nghệ sĩ cần phải xin phép, ghi rõ tên tác giả bài hát trước khi cover cũng như sử dụng bài hát để biểu diễn trên sân khấu.

Gần đây báo trí đưa tin về ca sĩ Phương Linh tự nhận bản thân đã sai, dù biết là ca khúc độc quyền của Văn Mai Hương nhưng vẫn cố tình biểu diễn. Cô tự ý ghép ban nhạc và trình diễn. Ngay sau đó Phương Linh đăng bài thông báo quản lý của cô đã làm việc ổn thỏa với ca sĩ Văn Mai Hương, đồng thời gửi lời cảm ơn đến đàn em.  Nhạc sĩ Hứa Kim Tuyền – nhạc sĩ sáng tác bài hát trên cho biết anh không đưa ý kiến về vụ việc trên, bởi đây là ca khúc độc quyền của Văn Mai Hương nên anh để hai bên tự giải quyết.

Do đó, VCD khuyên các nghệ sĩ khi muốn biểu diễn bài hát hit của nghệ sĩ khác phải tìm hiểu kỹ quy định của Pháp luật: chủ sở hữu là ai, xin phép tác giả hoặc chủ sở hữu bài hát đó, mình có thuộc trường hợp không phải xin phép tác giả/chủ sở hữu hay không…. Để tránh gây lùm xùm trên mạng và không bị vi phạm bản quyền.

Remix nhạc có bị vi phạm bản quyền không?

Ngày nay, trên các phương tiện truyền thông ta thường xuyên bắt gặp những bản nhạc được phối khí, hòa âm (remix) theo xu hướng thị trường âm nhạc thu hút được nhiều giới trẻ, cộng đồng mạng. Remix nhạc có thể mang đến sự độc đáo và sáng tạo, tạo ra phiên bản mới của một bài hát đã tồn tại.Tuy nhiên, những bản remix như vậy có vi phạm bản quyền hay không? Hãy theo dõi bài viết của VCD dưới đây.

1. Remix nhạc là gì

Từ remix trong Tiếng Anh có nghĩa là phối lại, do đó có thể hiểu nhạc remix là nhạc được phối khí lại, làm lại từ bản nhạc gốc. Tùy theo cách cảm nhạc của người remix mà một vài yếu tố trong bản nhạc gốc sẽ bị thay đổi hoặc thêm bớt như thay đổi tốc độ bản nhạc, thay đổi về cường độ, cao độ, hay sự cân bằng hoặc thời gian của bản nhạc… Hoặc thậm chí bản nhạc sẽ được phối lại hầu hết các thành phần âm nhạc.

Không có tiêu chuẩn chung nào cho thể loại nhạc remix mà hoàn toàn phụ thuộc vào cách cảm nhận và phong cách âm nhạc của nghệ sĩ remix, điều đó dẫn đến một bản nhạc gốc có thể có vô số các phiên bản remix khác nhau. Đặc điểm chung nhất của nhạc remix có lẽ là giai điệu được cải biên trẻ trung hơn, phù hợp với thị hiếu của giới trẻ.

Như vậy, remix nhạc được coi là tác phẩm phái sinh của bản nhạc gốc là quá trình phối khí lại một bản nhạc gốc nhằm đáp ứng mục đích của người nghệ sĩ, tạo ra một phiên bản mới với chất lượng cao hơn. Thường thì các bản nhạc gốc được remix sẽ được phát nhiều tại các quán bar, câu lạc bộ đêm, các chương trình radio… điều này giúp bài hát gốc được nhiều khán giả biết đến và trở nên phổ biến hơn. Khi các bản nhạc cũ, xưa được remix, chúng dễ dàng được giới trẻ tiếp cận và đón nhận, mang đến một cảm xúc mới mẻ cho người nghe. Đồng thời, việc remix cũng tạo cơ hội để những bản nhạc cổ được sống lại và duy trì sự tồn tại của chúng.

Remix nhạc có bị vi phạm bản quyền không

2. Remix nhạc có bị vi phạm bản quyền không?

Tại Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 được sửa đổi bởi khoản 8 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 có quy định về hành vi xâm phạm quyền tác giả đồng thời theo quy định Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 có quy định về quyền tài sản của tác giả như sau:

Điều 20. Quyền tài sản

Quyền tài sản bao gồm:

a) Làm tác phẩm phái sinh;

Các quyền quy định tại khoản 1 Điều này do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép tổ chức, cá nhân khác thực hiện theo quy định của Luật này.

Tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền quy định tại khoản 1 Điều này và khoản 3 Điều 19 của Luật này phải được sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả và trả tiền bản quyền, các quyền lợi vật chất khác (nếu có) cho chủ sở hữu quyền tác giả, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, các điều 25, 25a, 26, 32 và 33 của Luật này. Trường hợp làm tác phẩm phái sinh mà ảnh hưởng đến quyền nhân thân quy định tại khoản 4 Điều 19 của Luật này còn phải được sự đồng ý bằng văn bản của tác giả.

Chủ sở hữu quyền tác giả không có quyền ngăn cấm tổ chức, cá nhân khác thực hiện các hành vi sau đây:

a) Sao chép tác phẩm chỉ để thực hiện các quyền khác theo quy định của Luật này; sao chép tạm thời theo một quy trình công nghệ, trong quá trình hoạt động của các thiết bị để truyền phát trong một mạng lưới giữa các bên thứ ba thông qua trung gian hoặc sử dụng hợp pháp tác phẩm, không có mục đích kinh tế độc lập và bản sao bị tự động xóa bỏ, không có khả năng phục hồi lại;

b) Phân phối lần tiếp theo, nhập khẩu để phân phối đối với bản gốc, bản sao tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện hoặc cho phép thực hiện việc phân phối.

Theo đó, việc tạo ra tác phẩm phái sinh thuộc quyền tài sản của tác giả.

Mặt khác, tại quy định Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, được sửa đổi bởi khoản 8 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ 2022, xâm phạm quyền tài sản là một trong các hành vi xâm phạm quyền tác giả.

Do đó, việc remix lại một bài hát có thể được xem là một tác phẩm phái sinh, thuộc vào quyền tài sản được bảo hộ của tác giả nên khi remix lại bài hát cần phải có sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả và trả tiền bản quyền cũng như các quyền lợi vật chất khác (nếu có) cho chủ sở hữu quyền tác giả, trừ trường hợp:

  • Chủ sở hữu quyền tác giả không có quyền ngăn cấm tổ chức hoặc cá nhân khác thực hiện các hành vi theo quy định;
  •  Thuộc trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả;
  • Thuộc trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả dành cho người khuyết tật;
  • Thuộc trường hợp giới hạn quyền tác giả;
  • Thuộc trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền liên quan;
  • Thuộc trường hợp giới hạn quyền liên quan.

Như vậy, khi tổ chức, cá nhân thuộc các trường hợp nêu trên, thì không bị xem là xâm phạm quyền tác giả.

  • Xử phạt đối hành vi remix nhạc không xin phép

Trách nhiệm hành chính

Theo Điều 10 Nghị định 28/2017/NĐ-CP và khoản 2 Điều 3 Nghị định 28/2017/NĐ-CP, mức xử phạt đối với hành vi xâm phạm tác phẩm được quy định như sau:

  • Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi tự ý sửa chữa, cắt xén tác phẩm gây hại cho danh dự và uy tín của tác giả.
  • Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi xuyên tạc tác phẩm gây hại cho danh dự và uy tín của tác giả.

Ngoài ra, có các biện pháp khắc phục hậu quả như sau:

  • Buộc phải chỉnh sửa công khai thông tin sai lệch trên phương tiện truyền thông công cộng về hành vi vi phạm.
  • Buộc phải xóa bỏ bản sao tác phẩm vi phạm trên môi trường mạng và các nền tảng kỹ thuật số hoặc buộc tiêu hủy tài sản vi phạm đối với hành vi vi phạm.

Trách nhiệm dân sự

Tòa án áp dụng các biện pháp dân sự sau đây để xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo Điều 202 Luật sở hữu trí tuệ như sau:

  • Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm;
  • Buộc xin lỗi, cải chính công khai;
  • Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự;
  • Buộc bồi thường thiệt hại;
  • Buộc tiêu hủy hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hóa, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.

Vi phạm bản quyền âm nhạc trong môi trường số

Thế giới ngày càng phát triển bước vào thời kỳ chuyển đổi số, cách mạng khoa học kỹ thuật, vấn đề vi phạm bản quyền ngày càng trở nên phổ biến và xuất hiện tràn lan khắp nơi, nhất là trên các nền tảng mạng xã hội – nơi gắn kết hàng trăm triệu tài khoản người dùng trong và ngoài nước.Trong đó tình trạng vấn đề vi phạm bản quyền âm nhạc đang rất khó kiểm soát.Chính vì thế chúng ta sẽ không tránh khỏi những vi phạm bản quyền khi đăng tải nội dung trên nền tảng số. Để tìm hiểu kỹ vấn đề này hãy theo dõi bài viết “Vi phạm bản quyền âm nhạc trong môi trường số” của VCD dưới đây.

1. Vi phạm bản quyền âm nhạc là gì?

Bản quyền (hay quyền tác giả) là một thuật ngữ pháp lý được sử dụng để mô tả quyền mà tác giả có đối với các tác phẩm văn học và nghệ thuật của họ.

Vi phạm bản quyền, ăn cắp bản quyền hay lậu là việc sử dụng các tác phẩm được bảo vệ bởi luật bản quyền một cách trái phép, trừ khi có sự cho phép, do đó vi phạm một số quyền độc quyền được cấp cho chủ bản quyền, như quyền sao chép, phân phối, hiển thị hoặc thực hiện công việc được bảo vệ, hoặc để thực hiện các tác phẩm phái sinh.

Âm nhạc là một bộ môn nghệ thuật dùng âm thanh để diễn đạt cảm xúc của người hát hoặc người nghe. Các yếu tố chính của nó là cao độ, nhịp điệu, âm điệu, và những phẩm chất âm thanh của âm sắc và kết cấu bản nhạc.

Vi phạm bản quyền âm nhạc có thể hiểu là bài hát, tác phẩm âm nhạc bị cắt, sử dụng mà không có sự cho phép của chủ sở hữu bài hát. Cụ thể hơn là các hành vi như ăn cắp logo, tên tác phẩm; sửa chữa trái phép, sử dụng cho mục đích quảng cáo thương mại, bán bất hợp pháp và phổ biến nhất là sao chép và đạo văn.

2. Vi phạm bản quyền âm nhạc trong môi trường số

Thực tế ở thời điểm hiện tại, việc bảo vệ nội dung số của chủ thể quyền hầu như chỉ dừng lại ở việc thực hiện các biện pháp công nghệ tự bảo vệ tác phẩm của mình, đồng thời thực hiện các biện pháp cảnh báo và biện pháp xử lý hành chính để yêu cầu cơ quan nhà nước hỗ trợ ngăn chặn các hành vi vi phạm diễn ra với quy lớn. Còn việc áp dụng biện pháp khởi kiện dân sự tại tòa án có thẩm quyền vẫn còn là câu chuyện khó khăn với các chủ thể quyền.

Tình trạng vi phạm bản quyền tác giả trên không gian mạng sẽ khó có thể được giải quyết nếu như bản thân chủ thể tác giả không nhận thức và nắm bắt được các quy định của pháp luật để bảo vệ tác phẩm của mình, mỗi người dân không ý thức được việc sử dụng những tác phẩm sao chép, vi phạm bản quyền là hành vi vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý cũng cần đầu tư nguồn lực, ứng dụng các công nghệ thông tin để bảo vệ, rà soát tình trạng vi phạm bản quyền để có những giải pháp xử lý kịp thời.

Trung bình người Việt dành thời gian hơn một giờ mỗi ngày để nghe nhạc trên thiết bị di động của họ. Nắm bắt được điều này, nhiều công ty công nghệ, các nhà phát triển ứng dụng đã đầu tư và phát triển các website, các ứng dụng nghe nhạc trực tuyến để người dùng có thể thưởng thức âm nhạc ở bất kỳ nơi nào và bất kỳ thời gian nào họ muốn. Tại Việt Nam, âm nhạc trực tuyến đã dần trở nên phổ biến. Cùng với sự phát triển các nền tảng online kết hợp với các ứng dụng trên điện thoại thông minh, tiềm năng của thị trường nghe nhạc trực tuyến tại Việt Nam là rất lớn. Dự báo trong tương lai sẽ có thêm nhiều ứng dụng nghe nhạc trực tuyến tham gia vào thị trường âm nhạc Việt Nam; đặc biệt là sự ra đời và phát triển nhanh chóng của các nền tảng chia sẻ video ngắn như Tik Tok, Shorts (Google), Reels (Facebook)… khiến cho việc tiếp cận các tác phẩm âm nhạc trên môi trường số càng trở nên thuận lợi, dễ dàng hơn.

Chưa dừng lại ở đó, chủ thể quyền bị xâm phạm không chỉ là tổ chức, cá nhân trong nước mà bao gồm cả tổ chức, cá nhân nước ngoài. Ngoài ra, hiện nay, các công ty cung cấp dịch vụ trung gian cho phép người dùng truy cập và đăng tải nội dung nhưng việc kiểm soát bản quyền rất lỏng lẻo gây ra tình trạng xâm phạm quyền tác giả tràn lan.

Trong trường hợp xâm phạm bản quyền tác giả, bạn có thể bị xử phạt hành chính theo quy định tại Điều 10 Nghị định 131/2013/NĐ-CP:

“1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi tự ý sửa chữa, cắt xén tác phẩm gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

2. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi xuyên tạc tác phẩm gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

3. Biện pháp khắc phục hậu quả:

a) Buộc cải chính công khai trên phương tiện thông tin đại chúng thông tin sai sự thật đối với hành vi quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này;

b) Buộc dỡ bỏ bản sao tác phẩm vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường Internet và kỹ thuật số hoặc buộc tiêu hủy tang vật vi phạm đối với hành vi quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này.”

Bên cạnh đó, tại Điều 18 Nghị định 131/2013/NĐ-CP cũng quy định về hành vi xâm phạm quyền sao chép tác phẩm như  sẽ bị xử phạt từ 15.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng và bị áp dụng hình thức khắc phục hậu quả như trên.

Vi phạm bản quyền âm nhạc trong môi trường số

3. Cách kiểm tra vi phạm bản quyền âm nhạc trên Facebook, Youtube

Cách kiểm tra vi phạm bản quyền âm nhạc trên Facebook

Bước 1: Cài đặt ứng dụng SoundHound trên CH Play hoặc App Store.

Bước 2: Bật nhạc và khởi động ứng dụng SoundHound.

Bước 3: Truy cập link nhạc bản quyền của Facebook.

Bước 4: Tìm kiếm bài hát có trong video của bạn.

Bước 5: Nếu bài hát hiển thị tức là bài hát đó không dính bản quyền và bạn có thể sử dụng.

Cách kiểm tra vi phạm bản quyền âm nhạc trên Youtube

Bước 1: Truy cập vào địa chỉ: https://tunestotube.com

Bước 2: Đăng nhập bằng Gmail của bạn.

Bước 3: Chọn đoạn nhạc bạn muốn kiểm tra bản quyền.

Bước 4: Upload ảnh và đoạn mp3 lên.

Bước 5: Click “Create Video”

Bước 6: Chờ đợi video được tạo.

Bước 7: Đăng nhập vào tài khoản Youtube của bạn.

Bước 8: Kiểm tra video nhạc bạn tạo có dính bản quyền không.

Trước tình hình vi phạm bản quyền trên môi trường số ngày càng phổ biến, VCD cho rằng, việc bảo vệ quyền, lợi ích của tác giả cần được coi trọng hơn, quan tâm hơn so với những vấn đề dân sự thông thường để tránh tác động không tốt đến yếu tố tâm lý, ảnh hưởng đến sức sáng tạo cũng như chất lượng sáng tác đứa con tinh thần của tác giả.