Skip to main content

Tác giả: Biên Tập Viên

Giải quyết tranh chấp phát sinh từ quyền tác giả có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam

Giải quyết tranh chấp phát sinh từ quyền tác giả có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam là một vấn đề quan trọng trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Những tranh chấp này không chỉ thể hiện mối quan hệ giữa các tác giả, chủ sở hữu tác phẩm và người sử dụng, mà còn liên quan đến các quy định pháp lý phức tạp giữa các quốc gia. Việc giải quyết tranh chấp quyền tác giả có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam không chỉ đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các bên liên quan mà còn góp phần xây dựng niềm tin trong môi trường sáng tạo. Vậy, giải quyết tranh chấp quyền tác giả có yếu tố nước ngoài là gì?. Hãy theo dõi bài viết của VCD dưới đây.

1. Giải quyết tranh chấp quyền tác giả có yếu tố nước ngoài là gỉ?

Quyền tác giả theo pháp luật về sở hữu trí tuệ Việt Nam là quyền của tổ chức hoặc cá nhân đối với các tác phẩm mà họ sáng tạo hoặc sở hữu. Quyền này phát sinh ngay khi tác phẩm được tạo ra và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định. Điều này không phụ thuộc vào nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ của tác phẩm, cũng như việc tác phẩm đã được công bố hay chưa, hoặc đã được đăng ký hay chưa.

Tranh chấp quyền tác giả là sự tranh chấp về quyền lợi giữa các chủ thể liên quan đến quyền tác giả. Cụ thể theo khoản 1 Mục I Phần A Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BVHTT&DL-BKH&CN-BTP bao gồm: Giữa cá nhân với cá nhân về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học và tác phẩm phái sinh; giữa các đồng tác giả về quyền đồng tác giả, giữa cá nhân và tổ chức về quyền sở hữu tác phẩm, giữa chủ sở hữu quyền tác giả và tác giả về tiền nhuận bút, thù lao,…

Giải quyết tranh chấp về quyền tác giả có yếu tố nước ngoài được hiểu là việc tòa án giải quyết những tranh chấp về quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể liên quan đến quyền tác giả, trong đó có ít nhất một trong các bên đương sự là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc các quan hệ quyền tác giả phát sinh giữa các công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc có liên quan đến quan hệ ở nước ngoài.

Giải quyết tranh chấp phát sinh từ quyền tác giả có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam

2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp quyền tác giả có yếu tố nước ngoài

Tranh chấp phát sinh từ quyền tác giả có yếu tố nước ngoài với bản chất là tranh chấp dân sự có những đặc thù cơ bản là: tính phức tạp, tính đa quốc gia, tính bảo mật,… Pháp luật Việt Nam đã sớm xác định được vị trí, vai trò của tòa án nhân dân trong việc bảo vệ quyền tác giả, từ đó đặt ra nhiệm vụ xây dựng thủ tục tố tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.

Theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, các tranh chấp dân sự liên quan đến sở hữu trí tuệ bao gồm tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ theo quy định tại Điều 26 và tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ với mục đích lợi nhuận theo Điều 30. Những tranh chấp này đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Cụ thể, các tranh chấp có yếu tố nước ngoài được quy định tại Điều 35 thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Vì vậy, các tranh chấp quyền tác giả có yếu tố nước ngoài cũng sẽ được giải quyết bởi Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

3. Xác định pháp luật áp dụng để giải quyết tranh chấp quyền tác giả có yếu tố nước ngoài.

Đầu tiên, nếu Việt Nam và quốc gia nơi diễn ra tranh chấp quyền tác giả đều là thành viên của một Điều ước quốc tế liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, hoặc nếu một bên trong tranh chấp có quốc tịch của quốc gia đó, thì Điều ước quốc tế sẽ được áp dụng cho các tranh chấp quyền tác giả có yếu tố nước ngoài.

Trong trường hợp Điều ước quốc tế cho phép các bên lựa chọn pháp luật áp dụng, thì pháp luật sẽ được xác định dựa trên sự lựa chọn của các bên liên quan.

Nếu không có Điều ước quốc tế thì việc xác định pháp luật áp dụng đối với tranh chấp quyền tác giả có yếu tố nước ngoài căn cứ vào Điều 679 Bộ luật Dân sự 2015: “Quyền sở hữu trí tuệ được xác định theo pháp luật của nước nơi đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được yêu cầu bảo hộ”. Điều này có nghĩa là pháp luật áp dụng cho tranh chấp sẽ là pháp luật của quốc gia nơi quyền tác giả bị xâm phạm, và chủ sở hữu phải yêu cầu bảo hộ tại quốc gia đó. Đặc biệt, quyền tác giả tại quốc gia này cần phải được đăng ký và cấp văn bằng bảo hộ để chủ sở hữu có thể yêu cầu bảo vệ quyền lợi của mình; tức là, chỉ khi có sự bảo hộ hợp pháp, pháp luật của quốc gia đó mới được áp dụng để giải quyết tranh chấp.

Trên đây là bài viết “Giải quyết tranh chấp phát sinh từ quyền tác giả có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam”mà VCD gửi đến bạn. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Scan có được xem là hành vi sao chép tác phẩm của người khác?

Trong bối cảnh công nghệ phát triển nhanh chóng, việc scan tài liệu đã trở thành một phương thức phổ biến để lưu trữ và chia sẻ thông tin. Tuy nhiên, hành động này cũng dấy lên nhiều câu hỏi về mặt pháp lý, đặc biệt là liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Vậy, scan có được xem là hành vi sao chép tác phẩm của người khác hay không? Hãy theo dõi bài viết của VCD dưới đây.

1. Bản scan là gì?

Scan là một từ tiếng anh thông dụng được hiểu là quét hoặc đọc để chuyển các dữ liệu trên giấy tờ, tài liệu, hình ảnh trên giấy thành dữ liệu, file lưu trữ trên máy tính, điện thoại thông qua một chiếc máy scan, máy in có tính năng scan hoặc qua ứng dụng scan trên điện thoại.

Bản scan chuyển đổi tài liệu giấy thành định dạng số, giúp dễ dàng lưu trữ và truy cập thông tin từ máy tính hoặc thiết bị điện tử khác. Bản scan có thể được lưu trữ dưới nhiều định dạng khác nhau như: PDF, JPEG, TIFF hoặc PNG tùy thuộc vào mục đích sử dụng và yêu cầu của người dùng.

Tuy nhiên, hiện nay Luật giao dịch điện tử 2023 và các văn bản pháp luật liên quan không có định nghĩa cụ thể như thế nào về bản scan. Trên thực tế bản scan được xem là bản sao điện tử của các loại giấy tờ, tài liệu đã được scan qua. Bản scan thường dùng với mục đích số hóa văn bản, tài liệu để lưu trữ trong các cơ sở dữ liệu máy tính.

2. Scan có được xem là hành vi sao chép tác phẩm của người khác?

Căn cứ vào các khoản 3 và 4 Điều 3 của Nghị định 17/2023/NĐ-CP, “định hình” được hiểu là sự biểu hiện của tác phẩm thông qua chữ viết, ký tự, đường nét, hình khối, bố cục, màu sắc, âm thanh, hình ảnh hoặc tái hiện âm thanh, hình ảnh dưới dạng vật chất, từ đó có thể nhận biết, sao chép hoặc truyền đạt. Bản gốc của tác phẩm là phiên bản tồn tại dưới dạng vật chất, nơi việc sáng tạo tác phẩm được định hình lần đầu. Bản sao của tác phẩm là bản sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp toàn bộ hoặc một phần tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào.

Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi năm 2022 cũng quy định rằng tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình đã được công bố là những tác phẩm đã được phát hành với sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả và các quyền liên quan, nhằm phổ biến đến công chúng dưới bất kỳ hình thức nào với số lượng hợp lý. Hành vi sao chép được hiểu là việc tạo ra bản sao của toàn bộ hoặc một phần tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào.

Do đó, bản sao của tác phẩm có thể hiểu là bản sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp toàn bộ hoặc một phần tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện nào. Việc scan tài liệu thực chất là tạo ra một bản sao của tác phẩm gốc. Vì vậy, hành động này được xem là vi phạm quyền sao chép tác phẩm của người khác theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.

Scan có được xem là hành vi sao chép tác phẩm của người khác?

3. Scan tác phẩm có phải xin phép tác giả không?

Tác giả có quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm của mình. Quyền sao chép tác phẩm là một trong những quyền tài sản mà tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả có quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện, theo quy định tại khoản 1 Điều 20 của Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành. Cụ thể, các quyền này bao gồm:

  • Tạo ra tác phẩm phái sinh
  • Biểu diễn tác phẩm trước công chúng
  • Sao chép tác phẩm
  • Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm
  • Truyền đạt tác phẩm đến công chúng qua các phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, hoặc mạng thông tin điện tử
  • Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính

Tất cả tổ chức và cá nhân khi khai thác hoặc sử dụng một phần hoặc toàn bộ các quyền trên cần phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao cùng các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả. Hành vi sao chép tác phẩm mà không có sự cho phép của tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả được coi là vi phạm bản quyền theo khoản 6 Điều 28 của Luật Sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, có một số trường hợp cho phép sao chép tác phẩm mà không cần xin phép hoặc trả tiền nhuận bút, cụ thể được quy định tại điểm a, đ khoản 1 Điều 25 của Luật Sở hữu trí tuệ, bao gồm:

  • Tự sao chép một bản cho mục đích nghiên cứu khoa học hoặc giảng dạy cá nhân
  • Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu

Lưu ý rằng quy định này không áp dụng đối với tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình và chương trình máy tính. Khi sao chép tác phẩm, cần tôn trọng tác giả và quyền tác giả; thông tin về nguồn gốc xuất xứ và tác giả phải được ghi rõ.

Như vậy, việc scan tài liệu cũng là một hình thức sao chép tác phẩm. Tùy vào mục đích sao chép, tổ chức hoặc cá nhân có thể cần xin phép và trả tiền nhuận bút cho tác giả hoặc không.

Trên đây là bài viết “Scan có được xem là hành vi sao chép tác phẩm của người khác?”mà VCD gửi đến bạn. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Đăng ký Bản quyền Truyện tranh cần những giấy tờ gì?

Việc đăng ký bản quyền cho tác phẩm truyện tranh không chỉ là một bước quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của tác giả mà còn giúp xác lập quyền sở hữu hợp pháp đối với tác phẩm. Để quá trình đăng ký diễn ra thuận lợi, các tác giả và chủ sở hữu cần chuẩn bị một số giấy tờ và tài liệu cần thiết. Bài viết của VCD dưới đây sẽ giúp bạn.

1. Bản quyền truyện tranh là gì?

Truyện tranh là một loại truyện quen thuộc đối với mọi lứa tuổi trong cuộc sống là dạng câu chuyện được kể dưới dạng hình ảnh hay chuỗi hình ảnh liên tục kết hợp với loại hình văn bản hay các hình ảnh truyền tải thông tin khác đến người đọc.

Truyện tranh là một hình thức truyền tải thông điệp của người sáng tác đến người đọc một cách sinh động nhất được kết hợp bằng nhiều hình ảnh khác nhau nối tiếp nhau nhằm biểu thị đoạn hội thoại tường thuật, hiệu ứng âm thanh hoặc thông tin khác.

Truyện tranh là một loại hình tác phẩm được pháp luật sở hữu trí tuệ bảo hộ quyền tác giả. Hiện nay, các tác phẩm truyện tranh được phân loại vào nhóm tác phẩm viết. Đặc biệt, đối với những tác phẩm truyện tranh có ít lời thoại hoặc không có lời thoại, tác giả có thể sử dụng một phần tác phẩm để in ấn và trang trí lên các đồ dùng cá nhân như áo phông, cốc, bưu thiếp,… Trong trường hợp này, các tác phẩm này có thể được đăng ký bảo hộ dưới dạng mỹ thuật ứng dụng.

Bản quyền hay còn gọi là quyền tac giả là một thuật ngữ pháp lý được sử dụng để mô tả quyền mà tác giả có đối với các tác phẩm văn học nghệ thuật của họ.

Bản quyền truyện tranh là sự khẳng định quyền tác giả đối với tác phẩm truyện tranh do mình sáng tạo ra hoặc là chủ sở hữu tác phẩm đó.

Đăng ký Bản quyền Truyện tranh cần những giấy tờ gì?

2. Điều kiện bảo hộ bản quyền truyện tranh

Tổ chức và cá nhân có tác phẩm truyện tranh được bảo hộ quyền tác giả bao gồm người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả theo quy định từ Điều 37 đến Điều 42 của Luật Sở hữu trí tuệ.

Tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả có thể là tổ chức, cá nhân Việt Nam; hoặc tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tại Việt Nam mà chưa từng công bố ở nước nào khác, hoặc được công bố đồng thời tại Việt Nam trong vòng 30 ngày sau khi công bố lần đầu ở nước khác. Ngoài ra, tổ chức và cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Việt Nam là thành viên cũng được bảo hộ.

Tác phẩm truyện tranh thuộc các loại hình được bảo hộ quyền tác giả theo quy định tại Điều 14 của Luật Sở hữu trí tuệ. Tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ nếu không xâm phạm quyền tác giả của tác phẩm gốc. Để được bảo hộ, tác phẩm truyện tranh phải do tác giả trực tiếp sáng tạo từ lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm khác. Các tác phẩm không nằm trong phạm vi bảo hộ quyền tác giả sẽ không được bảo vệ.

3. Hồ sơ đăng ký bản quyền truyện tranh

Để đăng ký quyền tác giả, cần chuẩn bị các tài liệu sau:

  • Tờ khai đăng ký quyền tác giả:Tờ khai phải được làm bằng tiếng Việt, phải do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, hoặc người được ủy quyền ký tên. Đồng thời nội dung tờ khai cần ghi đầy đủ thông tin về người nộp đơn, tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; tóm tắt nội dung tác phẩm; tên tác phẩm gốc nếu là tác phẩm phái sinh; thời gian, địa điểm và hình thức công bố; cam kết về trách nhiệm đối với các thông tin trong đơn.
  • Hai bản sao tác phẩm: Cung cấp hai bản sao của tác phẩm đăng ký quyền tác giả.
  • Giấy ủy quyền: Nếu người nộp đơn không phải là tác giả mà là người được ủy quyền, cần có giấy ủy quyền.
  • Tài liệu chứng minh quyền nộp đơn: Nếu người nộp đơn thụ hưởng quyền từ người khác (do thừa kế, chuyển nhượng, kế thừa), cần có tài liệu chứng minh quyền này.
  • Văn bản đồng ý của các đồng tác giả: Nếu tác phẩm có nhiều đồng tác giả, cần có văn bản đồng ý của tất cả các đồng tác giả.
  • Văn bản đồng ý của các đồng chủ sở hữu: Nếu quyền tác giả thuộc sở hữu chung, cần có văn bản đồng ý của tất cả các đồng chủ sở hữu.
  • Lợi ích của việc đăng ký bản quyền truyện tranh

Việc đăng ký quyền tác giả mang lại nhiều lợi ích quan trọng cho tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả, bao gồm:

Chứng minh quyền hợp pháp: Đăng ký giúp tác giả và chủ sở hữu chứng minh quyền hợp pháp của mình trong trường hợp xảy ra tranh chấp với bên khác. Điều này tạo cơ sở cho các cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp dân sự, hành chính hoặc hình sự đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả.

Khai thác quyền: Việc đăng ký còn giúp tác giả và chủ sở hữu dễ dàng khai thác các quyền nhân thân và tài sản mà pháp luật ghi nhận. Điều này bao gồm quyền sử dụng, chuyển nhượng và cấp phép cho tác phẩm của mình.

Bảo hộ quốc tế: Đăng ký bảo hộ bản quyền truyện tranh tại Việt Nam cũng giúp tác giả và chủ sở hữu được bảo vệ theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Điều này có nghĩa là quyền tác giả của họ không chỉ được bảo vệ trong lãnh thổ Việt Nam mà còn tại các quốc gia khác.

Trên đây là bài viết “Đăng ký Bản quyền Truyện tranh cần những giấy tờ gì?”mà VCD gửi đến bạn. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Quyền tác giả đối với tác phẩm phái sinh

Quyền tác giả đối với tác phẩm phái sinh là một khía cạnh thiết yếu trong luật sở hữu trí tuệ, phản ánh mối quan hệ giữa tác phẩm gốc và tác phẩm được phát triển từ nó. Việc bảo vệ quyền lợi của các tác giả không chỉ đảm bảo sự công bằng mà còn khuyến khích sáng tạo và đổi mới trong nghệ thuật. Vậy, quyền tác giả đối với tác phẩm phái sinh là gì? Hãy theo dõi bài viết của VCD dưới đây.

1. Khái niệm quyền tác giả đối với tác phẩm phái sinh

Tại khoản 2 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành quy định: tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh. Theo đó cũng như quyền tác giả đối với tác phẩm gốc. chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm phái sinh cũng được hưởng quyền tài sản và quyền nhân than nhưng tùy thuộc vào mức độ và phạm vi. Tuy nhiên, quyền tác giả đối với tác phẩm phái sinh cũng có những đặc thù khi đặt trong mối quan hệ với tác phẩm gốc đó là quyền tác giả đối với tác phẩm phái sinh sẽ hoàn toàn độc lập với quyền tác giả đối với tác phẩm gốc ngay kể từ khi tác phẩm phái sinh được định hình dưới một dang vật chất nhât định. Tác phẩm phái sinh được bảo hộ quyền tác giả như một tác phẩm gốc nhưng không được gây phương hại đến quyền tác giả của tác phẩm gốc.

Giống như tác phẩm gốc, quyền tác giả của tác phẩm phái sinh là quyền tự động phái sinh ngay sau khi được tạo ra, được pháp luật bảo hộ mà không cần đăng ký.

2. Chủ thể quyền tác giả đối với tác phẩm phái snh

Theo Điều 4 của Luật sở hữu trí tuệ hiện hành thì quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Như vậy chủ thể quyền tác giả có thể là chính tác giả (đồng tác giả) hoặc chủ sở hữu quyền tác giả. Bên cạnh đó cũng có một số cá nhân được sở hữu tác phẩm không phải do họ sáng tạo mà do được chuyển giao hoặc được thừa kế của cá nhân khác để lại, chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ cho tác giả hoặc giao kết hợp đồng với tác giả, ngoài ra còn có chủ sở hữu quyền tác giả là Nhà nước đối với những tác phẩm thuộc về công chúng.

Quyền tác giả đối với tác phẩm phái sinh

3. Xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm phái sinh

Khi một tác phẩm phái sinh ra đời hợp pháp đáp ứng tất cả các điều kiện pháp luật quy định thì bản thân tác phẩm phái sinh đó sẽ được bảo hộ như một tác phẩm độc lập. Hành vi xâm phạm quyền tác giả nói chung bao gồm hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm phái sinh nói riêng được liệt kê cụ thể tại điều 28 Luật sở hữu trí tuệ hiện hành.  Bao gồm bốn nhóm hành vi sau đây:

Nhóm hành vi xâm phạm quyền nhân thân của tác giả:

  • Xâm phạm quyền đặt tên tác phẩm: thay đổi tên tác phẩm mà không được phép của tác giả, đồng tác giả trừ trường hợp tác phẩm dịch hoặc pháp luật khác có quy định. Khi làm tác phẩm phái sinh phải nêu tên tác phẩm gốc và không được tự ý đổi tên tác phẩm gốc.
  • Xâm phạm quyền đứng tên, nêu tên tác phẩm phái sinh: mạo danh tác giả, giả mạo tên, chữ ký tác giả, không nêu hoặc cố ý nêu sai tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ tác phẩm khi khai thác, sử dụng.
  • Xâm phạm quyền công bố của tác phẩm phái sinh: công bố mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả, đồng sở hữu quyền tác giả, chiếm đoạt quyền tác giả.
  • Xâm phạm quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả: xuyên tạc, sửa đổi, cắt xém tác phẩm.

Nhóm hành vi xâm phạm quyền tài sản của chủ sở hữu quyền tác giả:

  • Xâm phạm quyền làm tác phẩm phái sinh: tác phẩm đã có được sử dụng làm tác phẩm phái sinh mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả, đồng chủ sở hữu quyền tác giả.
  • Xâm phạm quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng: biểu diễn, đọc, trung bày, triễn lãm, trình chiếu, trình diễn tại nơi công cộng hoặc nơi bán vé, thu tiền vào của mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả.
  • Xâm phạm quyền sao chép tác phẩm: nhân bản, tạo ra bản sao tác phẩm mà chưa xin phép.
  • Phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng bản gốc, bản sao hữu hình tác phẩm mà chưa được sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả.
  • Truyền đạt, phát song đến công chúng qua mạng viễn thông và mạng internet.
  • Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.

Nhóm hành vi xâm phạm quyền tự bảo vệ của chủ thể quyền tác giả:

  • Cố ý bỏ hoặc làm vô hiệu biện pháp công nghệ hữu hiệu.
  • Sản xuất phân phối nhập khẩu, chào bán, quảng bá, quảng cáo tàng trữ nhàm mục đích thương mại.
  • Cố ý xóa, gỡ bỏ hoặc thay đổi thông tin quản lý quyền mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.
  • Cố ý phân phối, nhập khẩu để phân phối, phát song, truyền đạt đến công chúng bản sao tác phẩm khi biết hoặc có cơ sở để biết thôg tin quản lý quyền đã bị xóa, gỡ bỏ, thay đổi mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.

Nhóm hành vi xâm phạm quyền tác giả do không thực hiện nghĩa vụ được pháp luật quy định: để tạo ra một sản phẩm sáng tạo đòi hỏi tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả phải bỏ ra rất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc vì vạy lẽ dĩ nhiên những người muốn sử dụng các sản phẩm đó phải trả cho họ một khoản tiền hợp lý nhất là trong trường hợp làm tác phẩm phái sinh.

 Trên đây là bài viết “Quyền tác giả đối với tác phẩm phái sinh”mà VCD gửi đến bạn. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Các biện pháp đảm bảo thực thi quyền tác giả đối với chương trình máy tính

Trong kỷ nguyên số hóa, chương trình máy tính không chỉ là công cụ hỗ trợ mà còn là sản phẩm sáng tạo của trí tuệ con người. Tuy nhiên, việc bảo vệ quyền tác giả cho các sản phẩm này đang phải đối mặt với nhiều thách thức do sự dễ dàng trong sao chép và phân phối. Để đảm bảo quyền lợi cho các nhà phát triển và thúc đẩy đổi mới, các biện pháp thực thi quyền tác giả trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Bài viết của VCD dưới đây sẽ giúp bạn.

1. Khái quát chung

Các biện pháp bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ không chỉ là các biện pháp ngă ngừa các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ xảy ra trên thực tế mà còn là việc xử lý, giải quyết khi có hành vi xâm phạm nhằm chấm dứt hành vi xâm phạm và bồi thường thiệt hại.

Theo khoản 1 Điều 22 Luật sở hữu trí tuệ hiện hành đưa ra khái niệm như sau: Chương trình máy tính là tập hợp các chỉ dẫn được thể hiện dưới dạng lệnh, mã, lược đồ hoặc dạng khác, khi gắn vào một phương tiện, thiết bị được vận hành bằng ngôn ngữ lập trình máy tính thì có khả năng làm cho máy tính hoặc thiết bị thực hiện được công việc hoặc đạt được kết quả cụ thể. Chương trình máy tính được bảo hộ như tác phẩm văn học, dù được thể hiện dưới dạng mã nguồn hay mã máy.

Từ các khái niệm trên cho thấy Chương trình máy tính được bảo hộ như tác phẩm văn học nhưng trong quá trình tạo thành và hoạt động lại là sản phẩm khoa học kỹ thuật. Điều này tạo ra những thách thức về tính hiệu quả cho các chủ sở hữu quyền thực hiện những hành động chống lại các hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với chương trình máy tính.

Các biện pháp đảm bảo thực thi quyền tác giả đối với chương trình máy tính

2. Các biện pháp đảm bảo thực thi quyền tác giả đối với chương trình máy tính.

  • Biện pháp áp dụng công nghệ để tự bảo vệ:

Áp dụng các biện pháp công nghệ để tự bảo vệ nhằm mục đích giảm thiểu vi phạm bản quyền bằng cách kiểm soát cách thức sử dụng chương trình máy tính bằng các phương tiện kỹ thuật được xem là hiệu quả:

Áp dụng biện pháp công nghệ để phát hiện hành vi cài đặt chương trình máy tính trái phép. Để phát hiện hành vi cài đặt chương trình máy tính trái phép, các chương trình máy tính được thiết lập theo hướng dữ liệu của các doanh nghiệp của các doanh nghiệp phần mềm có một hệ thống theo dõi hoạt động của các chương trình máy tính bằng việc kết nối chương trình máy tính với hệ thống máy chủ serve, mỗi khi một chương trình máy tính được sử dụng trái phép ngay lập tức máy chủ sẽ được thông báo.

Áp dụng biện pháp công nghệ để ngăn chặn hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với chương trình máy tính. Các chương trình máy tính được bảo hộ quyền tác giả thường được thiết lập chức năng kiểm tra quyền tác giả như yêu cầu người sử dụng nhập vào một dãy số (gọi là key) để chứng thực là người dùng hợp pháp lúc mới cái đặt. Người sử dụng chương trình máy tính phải trả tiền cho chủ sở hữu quyền tác giả đối với chương trình máy tính để có được các key này.

  • Biện pháp dân sư:

Vấn đề nhận thức các hoạt động liên quan đến quyền tác giả đối với chương trình máy tính của các chủ thể sử dụng như người dùng cuối, hoặc các doanh nghiệp bao gồm chưa cao. Người tiêu dùng Việt Nam vẫn thích sử dụng các chương trình máy tính miễn phí được tải từ internet hoặc tìm cách vô hiệu hóa các biện pháp kỹ thuật mà chủ sở hữu quyền tác giả đối với chương trình máy tính áp dụng. Thực tiễn thực thi cho thấy nhiều chủ thể có tâm lý e ngại việc khởi kiện yêu cầu chấm dứt hành vi xâm phạm vì những chi phí cần bỏ ra trong quá trình thu thập chứng cứ chứng minh hành vi xâm phạm, nếu tòa tuyên thắng kiện thì cũng chỉ được hoàn lại án phí trong khi đó nhiều trường hợp thiệt hại không thể xác định được. Do vậy, cần có quy định về bồi thường thiệt hại ấn định tối thiểu cho các trường hợp hành vi xâm phạm quyền tác giả nhưng không xác định được thiệt hại để khuyến khích các chủ thể quyền tiến hành khởi kiện truy cứu trách nhiệm pháp lý đồng thời cũng có tác dụng cảnh cáo cáo chủ thể đang có chủ ý xâm phạm quyền tác giả.

  • Biện pháp hình sự:

Trên thực tế không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới có rất ít các trường hợp xâm phạm quyền tác giả đối với chương trình máy tính bị xử lý hình sự. Việt Nam hiện nay chưa xử lý hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với chương trình máy tính bằng biện pháp hình sự, tuy nhiên điều đó không có nghĩa là chưa có các hành vi thỏa mãn cấu thành tội phạm về quyền tác giả đối với chương trình máy tính. Dù bản chất là quan hệ dân sự nhưng với những tác hại của các hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với chương trình máy tính là rất lớn về kinh tế cho chủ sở hữu nên Bộ luật dân sự 2015 sửa đổi năm 2017 giới hạn trong hai nhóm hành vi là sao chép chương trình máy tính và phân phối đến công chúng bản sao chương trình máy tính.

  • Biện pháp hành chính:

Khi phát hiện ra hành vi xâm phạm, chủ sở hữu quyền tác giả đối với chương trình máy tính sẽ kiến nghị và làm việc trực tiếp với chủ thể bị nghi ngờ có hành vi xâm phạm để yêu cầu tiến hành chấm dứt hành vi xâm phạm đó. Theo khoản 1 Điều 211 Luật sở hữu trí tuệ hiện hành hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị xử phạt vi phạm hành chính khi tổ chức, cá nhân thực hiện một trong các hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với chương trình máy tính: hành vi gây thiệt hại cho tác giả, chủ sở hữu, người tiêu dùng hoặc cho xã hội; sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng hóa giả mạo về quyền tác giả đối với chương trình máy tính. Hình thức xử phạt chính là cảnh cáo và phạt tiền. Ngoài ra còn áp dụng biện pháp bổ sung là gỡ bhor bản sao chương trình máy tính trên phương tiện đang sử dụng và trong môi trường mạng.

Trên đây là bài viết “Các biện pháp đảm bảo thực thi quyền tác giả đối với chương trình máy tính”mà VCD gửi đến bạn. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Quy định của pháp luật về giới hạn quyền tác giả

Quyền tác giả là một trong những lĩnh vực pháp lý quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của những người sáng tạo. Tuy nhiên, để cân bằng giữa lợi ích của tác giả và quyền lợi của xã hội, pháp luật đã có những quy định về giới hạn quyền tác giả. Vậy pháp luật quy định như thế nào? Hãy theo dõi bài viết của VCD dưới đây.

1. Khái niệm về giới hạn quyền tác giả

Mỗi tác phẩm ra đời, người tạo ra tác phẩm đó hay còn gọi là tác giả sẽ được pháp luật trao cho một số quyền hạn nhất định và đó sẽ là công cụ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ trước sự xâm phạm của các chủ thể khác trong xã hội.

Giới hạn quyền tác giả có thể hiểu dưới một số khía cạnh sau:

Thứ nhất, giới hạn về không gian: Quyền tác giả mang tính lãnh thổ có nghĩa là quyền tác giả phát sinh theo pháp luật của nước nào thì chỉ có hiệu lực trong phạm vi pãnh thổ của nước đó. Tác phẩm được bảo hộ ở quốc gia này không đồng nghĩa với việc mặc nhiên được bảo hộ ở quốc gia khác. Do đó, phạm vi bảo hộ tác phẩm sẽ được mở rộng đối với tất cả các quốc gia thanh viên khi họ tham gia điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ.

Thứ hai, giới hạn vê thời hạn bảo hộ: quyền tác giả chỉ có thời hạn nhất định chứ khôn phải có thời hạn vĩnh viễn, mỗi đối tượng sẽ cso những thời hạn bảo hộ khác nhau.

Thứ ba, giới hạn về đối tượng không được bảo hộ: không phải tất cả các đối tượng đều được bảo hộ theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ. Các đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả bao gồm: tin tức thời sự thuần túy đưa tin, văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, những đối tượng sở hữu trí tuệ có nội dung trái với đạo đức xã hội, trật tự công cộng, có hại cho quốc phòng an ninh,…

Thứ tư, giới hạn về nội dung bảo hộ: giới hạn quyền tác giả có thể bị hạn chế trong những trường hợp người khác có thể sử dụng tác phẩm mà không phải xin phép chủ sở hữu quyền tác giả, thâm chid không phải trả những lợi ích vật chất với những lý do chính đáng của ciệc sử dụng dựa trên các yếu tố như bản chất và mục đích sử dụng, phạm vi và ảnh hưởng của việc sử dụng,….

Như vậy, có thể hiểu giới hạn quyền tác giả là việc cho phép người khác khai thác, sử dụng tác phẩm mà không phải xin phép chủ sở hữu quyền tác giả, có thể không phải trả các lợi ích vật chất và việc khai thác sử dụng phải đảm bảo trong phạm vi nhất định với những lý do chính đán, những ddiefu kiện thỏa đáng mà không ảnh hưởng đến tác giả.

2. Nguyên tác giới hạn quyền tác giả

Nguyên tác khuyến khích sáng tạo: Theo Điều 40 Hiến pháp 2013 quy định “Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và cong nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó”. Do đó để phát huy khả năng của các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học cũng như đảm bảo vai trò của khoa học công nghệ, văn học, nghệ thuật trên thực tế thì hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam khi xây dựng các quy định về giới hạn quyền cũng cần lưu ý và tuân thủ theo tinh thần và quy định của Hiến pháp sao cho đảm bảo quyền nghiên cứu, sáng tạo của tác giả.

Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng: Điều 16 Hiến pháp 2013 quy định: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Pháp luật sở hữu trí tuệ cũng căn cứ theo nguyên tắc này. Tuy nhiên, nguyên tắc này không được áp dungjtrong mọi trường hợp, quyền sở hữu trí tuệ của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả sẽ bị giới hạn trong một số trường hợp liên quan đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng hay quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân tổ chức khác.

Nguyên tắc tự định đoạt: Quyền sở hữu trí tuệ là một loại quyền dân sự đặc biệt. Trong pháp luật sở hữu trí tuệ thì nguyên tắc tự định đoạt đucợ thể hiện thông qua việc mỗi cá nhân đều có quyền tự do sáng tạo và tự do thực hiện các giao dịch liên quan tới tài sản trí tuệ thuộc sở hữu của mình.

Nguyên tắc cân bằng lợi ích: đảm bảo sự bình đẳng của các chủ thể trong phân chia các lợi ích thu được từ đối tượng sở hữu trí tuệ. Sự cân bằng lợi ích trong các mối quan hệ pháp luật thể hiện tập trung thông qua sự cân bằng lợi ích giữa chủ hữu đối tượng sở hữu trí tuệ với cộng đồng.

Quy định của pháp luật về giới hạn quyền tác giả

3. Cơ sở giới hạn quyền tác giả

Theo khoản 2 Điều 4 Hiếp pháp Việt Nam 2013 quy định: Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.

Luật sở hữu trí tuệ tại khoản 3 Điểu 7 cũng khẳng định nguyên tắc giới hạn quyền như sau: Trong trường hợp nhằm bảo đảm mục tiêu quốc phòng, an ninh, dân sinh và các lợi ích khác của Nhà nước, xã hội quy định tại Luật này, Nhà nước có quyền cấm hoặc hạn chế chủ thể quyền sở hữu trí tuệ thực hiện quyền của mình hoặc buộc chủ thể quyền sở hữu trí tuệ phải cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng một hoặc một số quyền của mình với những điều kiện phù hợp; việc giới hạn quyền đối với sáng chế thuộc bí mật nhà nước được thực hiện theo quy định của Chính phủ.

Như vậy, hạn chế quyền là việc cần thiết của nhà nước bảo đảm quyền của chủ thể này không xâm phạm tới quyền của chủ thể khác, hay có thể hiểu bảo vệ phạm vi tự do chính đáng của người này cũng chính là hạn chế tự do của người khác, điều này hướng tới việc bảo đảm cho mỗi cá nhân có thể tự do thực hiện quyền của mình nhưng miễn là không thuộc nhữn phần bị “hạn chế”. Các quyền tự do ở đây là “tự do trong khuôn khổ” chứ không phải là “tự do tuyệt đối”.

Trong pháp luật sở hữu trí tuệ, các quy định về giới hạn quyền ra đời nhằm bảo đảm cho chủ thể quyền tác giả và xã hội đều được hưởng những lợi ích một cách xứng đáng, hài hòa, hợp lý nhất, đảm bảo không bên nào được hưởng lợi ích quá mức, xâm phạm đến lợi ích chính đáng của bên kia.

Trên đây là bài viết “Quy định của pháp luật về giới hạn quyền tác giả ”mà VCD gửi đếbạn. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian trong việc bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan

Trong bối cảnh nội dung số ngày càng trở nên phong phú và đa dạng, sự xuất hiện của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian đã tạo ra những cơ hội và thách thức mới cho hệ sinh thái sáng tạo. Những doanh nghiệp này không chỉ đóng vai trò là nền tảng phân phối mà còn nắm giữ trách nhiệm lớn lao trong việc bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan. Vậy, trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian trong việc bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan như thế nào? Hãy theo dõi bài viết của VCD dưới đây.

1. Khái quát về doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian

Tại khoản 1 Điều 198b Luật sở hữu trí tuệ hiện hành quy định: Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian là doanh nghiệp cung cấp phương tiện kỹ thuật để tổ chức, cá nhân sử dụng dịch vụ đưa nội dung thông tin số lên môi trường mạng viễn thông và mạng Internet; cung cấp kết nối trực tuyến cho công chúng tiếp cận, sử dụng nội dung thông tin số trên môi trường mạng viễn thông và mạng Internet.

Bên cạnh đó Nghị định số 17/2023/NĐ-CP cũng đã có định nghĩa về doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian tại khoản 1 Điều 110 với sự liệt kê đầy đủ các dịch vụ của các loại hình doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian. Có thể thấy điểm chung của các dịch vụ được đề cập tại khoản 1 Điều 110 nghị định này chỉ được phép truyền đạt những nội dung nguyên bản giữa những cá nhân, tổ chức trên nền tảng mà họ cung cấp dịch vụ hay đơn giản hơn là họ cung cấp một không gian nền tảng trực tuyến cho những cá nhân, tổ chức nhằm mục đích thực hiện một số chức năng nhất định được quy định tại từng quốc gia.

Như vậy, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian có thể hiểu là một pháp nhân cung cấp một hay nhiều dịch vụ nhằm tạo ra sự kết nối giữa người dùng trong việc trao đổi thông tin trên các nền tảng trực tuyến thông qua hệ thống các phương tiện kỹ thuật. Bên cạnh đó họ không được can thiệp vào việc chỉnh sửa nội dung thông tin được truyền tải trên không gian mạng.

Trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian trong việc bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan

2. Trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian trong việc bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan


Tại khoản 2 và 3 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ hiện hành quy định về thuật ngữ quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả như sau:

2. Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.

3. Quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi là quyền liên quan) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.

Bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan không chỉ là vấn đề công bằng và công lý mà còn là vấn đề kinh tế. Trong thời đại số hóa hiện nay việc bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan trở nên phức tạp hơn do sự phát triển của công nghệ thông tin.

Dịch vụ trung gian được coi là cầu nối liên kết đưa thông tin và các tác phẩm văn học, tác phẩm biểu diễn, các bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng tới công chúng thông qua các công nghệ như dịch vụ viễn thông, internet, mạng xã hội,…. Qua đó các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian này luôn cần phát triển để đáp ứng nhu cầu của người dùng.

Một trong những đặc điểm nổi bật của không gian mạng đồng thời là một trong những yếu tố hấp dẫn của nó là sự ẩn danh của những người tương tác trên môi trường đó. Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói chung và bản quyền nói riêng sự ẩn danh này gây khó khăn cho các chủ sở hữu quyền khi họ muốn bảo vệ quyền của mình, chủ thể hiện hữu rõ ràng nhất trên môi trường số có thể can thiệp chỉ là các daonh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian. Trong trường hợp xảy ra hành vi vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan thì các doanh nghiệp này là những bên đầu tiên có khả năng ngăn chặn hoặc tạo điều kiện cho hành vi vi phạm xảy ra với bản chất là bên góp phần tạo ra môi trường số.

Tuy nhiên hiện nay chưa có một định nghĩa chung nào về trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian này trong việc bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan mà trách nhiệm này chủ yếu được xác định bởi các quy định pháp luật do chính phủ ở các quốc gia khác nhau thiết lập. Bản chất và mức độ trách nhiệm pháp lý của nó có thể khác nhau đáng kể giữa các quốc gia nhưng nhìn chung trách nhiệm pháp lý của nó trong việc bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan là sự chịu trách nhiệm và tuân thủ các quy định pháp luật liên quan đến quản lý, giám sát và xử lý các hành vi xâm phạm nhằm bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan của người dùng trên nền tảng của họ.

Hiện nay có ba truy trình phổ biến mà các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian thường áp dụng để giải quyết các hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan: “thông báo – gỡ bỏ”, “thông báo – thông báo”, “thông báo – ngăn chặn”. Những quy trình này đều đem lại hiệu quả thực thi và bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan cũng như cho phép họ duy trì một môi trường trực tuyến an toàn và công bằng giữa người dùng với người dùng và người dùng với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian.

Trên đây là bài viết “Trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian trong việc bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan”mà VCD gửi đến bạn. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Giới hạn quyền tác giả trong trong hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học

Trong lĩnh vực giáo dục và nghiên cứu khoa học, việc chia sẻ và sử dụng nguồn tài liệu là rất cần thiết để thúc đẩy tri thức và đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, việc bảo vệ quyền tác giả cũng đóng vai trò quan trọng nhằm đảm bảo quyền lợi cho tác giả và khuyến khích sáng tạo. Chính vì vậy, giới hạn quyền tác giả trong hoạt động giảng dạy và nghiên cứu trở thành một vấn đề đáng được lưu ý. Vậy quy định của pháp luật về vấn đề này như thế nào? Hãy theo dõi bài viết của VCD dưới đây.

 1. Khái niệm

Giảng dạy được hiểu là trình bày kiến thức, truyền thụ tri thức một cách cụ thể cho người khác hiểu. Nghiên cứu khoa học là hoạt động khám phá, phát hiện, tìm hiểu bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy sáng tạo giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn (khoản 4 Điều 3 Luật Khoa học và công nghệ 2013).

Đặc điểm chung trong hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học là việc khai thác, sử dụng các tác phẩm đã được công bố. Việc khai thác, sử dụng này có thể dưới nhiều hình thức khác nhau và đóng vai trò quan trọng trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học.

Giới hạn quyền tác giả trong hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học được hiểu là việc sử dụng tác phẩm trong quá trình truyền đạt kiến thức, sáng tạo, tìm hiểu, khám phá các sự vật, hiện tượng, xã hội mà người sử dụng không cần xin phép tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, có thể không phải trả thù lao không được ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.

Giới hạn quyền tác giả trong trong hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học

2. Quy định về giới hạn quyền tác giả đối với hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học

Pháp luật về quyền tác giả ghi nhận những đóng góp về văn học, nghệ thuật và nghiên cứu khoa học của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả bằng cách dành cho họ những độc quyền khai thác, sử dụng thành quả sáng tạo, đầu tư của minh.  Nhằm hài hòa lợi ích của chủ thể quyền tác giả và lợi ích công cộng pháp luật sở hữu trí tuệ quy định các ngoại lệ của độc quyền hay còn gọi là các hạn chế của quyền tác giả đối với một số hành vi sử dụng, khai thác quyền tác giả.

Việc giới hạn thể hiện ở chỗ trong những trường hợp nhất định thì cá nhân, tổ chức khác có quyền sử dụng tác phẩm được công bố mà không phải xin phép, không phải trả tiền bản quyền cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả hoặc sử dụng tác phẩm được công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao (Điều 25 và Điều 26 Luật sở hữu trí tuệ hiện hành). Đối tượng áp dụng trong trường hợp này là các tác phẩm đã được công bố.

Trường hợp sử dụng tác phẩm không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao:

  • Đối với quy định tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân:  Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 25 Luật sở hữu trí tuệ hiện hành, ngoài việc tuân thủ theo nguyên tắc chung trong việc sử dụng tác phẩm là không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường của tác phẩm và không gây phương hại đến quyền lợi hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả thì việc sao chép tác phẩm không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút chỉ được tiến hành khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:tự thực hiện hành vi sao chép; và chỉ được sao chép một bản và chỉ nhằm mục đích nghiên cứu khoa học và giảng dạy của cá nhân.
  • Đối với quy định sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu. Hoạt động của thư viện luôn gắn liền với vấn đề bảo hộ quyền tác giả, bởi lẽ xuất phát từ chức năng nhiệm vụ của thư viện được quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật thư viện 2019.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 29 nghị định 17/2023/ND-CP: Sao chép tác phẩm lưu trữ trong thư viện quy định tại điểm e khoản 1 Điều 25 của Luật Sở hữu trí tuệ là việc sao chép không quá ba bản để bảo quản, với điều kiện các bản sao này phải được đánh dấu là bản sao lưu trữ và giới hạn đối tượng tiếp cận theo quy định của pháp luật về thư viện, lưu trữ. Theo quy định nêu trên đối với việc sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện cũng giới hạn ở số lượng bản sao là ba bản và phải được đánh dấu là bản sao lưu trữ và giới hạn mục đích là không nhằm mục đích thương mại.

Trường hợp sử dụng tác phẩm không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao:

  • Pháp luật cho phép chủ thể khác được sử dụng tác phẩm trong một số trường hợp nhất định mà không phải xin phép chủ sở hữu quyền tác giả nhưng phải trả tiền thù lao cho việc sử dụng. Điều 26 Luật sở hữu trí tuệ hiện hành quy định về trường hợp này. Đây là ngoại lệ dành riêng cho tổ chức phát sóng, hành vi phát sóng được coi là truyền đạt tác phẩm đến công chúng. Do đó pháp luật sở hữu trí tuệ đã quy định khi cá nhân nhân, tổ chức thực hiện phát sóng thì cần phải trả một khoản tiền cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả. Các tổ chức phát sóng khi sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng dù là có tài trợ, quảng cáo, thu tiền hay không thì đều phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng. Điểm khác nhau được thể hiện ở mức nhuận bút, thù lao.

Trên đây là bài viết “Giới hạn quyền tác giả trong trong hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học”mà VCD gửi đến bạn. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Bảo hộ quyền tác giả trong lĩnh vực thương mại điện tử

Trong kỷ nguyên thương mại điện tử, việc bảo vệ quyền tác giả trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Sự phát triển nhanh chóng của nội dung số khiến việc sao chép và chia sẻ trở nên dễ dàng, đồng thời đặt ra nhiều thách thức cho các tác giả và doanh nghiệp. Vậy bảo hộ quyền tác giả trong lĩnh vực thương mại điện tử như thế nào?. Hãy theo dõi bài viết của VCD dưới đây.

1. Khái quát về thương mại điện tử

Thương mại điện tử hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ các giao dịch mang tính thương mại được tiến hành bằng các phương tiện điện tử. Còn hiểu theo nghĩa hẹp thì thương mại điện tử là toàn bộ các giao dịch mang tính thương mại được tiến hành bằng các phương tiện điện tử mà chủ yếu là các mạng truyền thông, mạng máy tính và internet.

Pháp luật Việt Nam có đưa ra quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định 52/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 85/2021/NĐ-CP như sau: Hoạt động thương mại điện tử là việc tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử có kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác.

Đặc điểm của thương mại điện tử:

  • Thương mại điện tử sử dụng các phương thức điện tử để tiến hành các giao dịch thương mại: việc sử dụng các phương thức điện tử cho phép các bên thực hiện các hoạt động mua, bán, chuyển giao, trao đổi các thông tin về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ,…
  • Thương mại điện tử mang tính chất xuyên biên giới: các phương tiện điện tử tạo ra một không gian với mạng lưới toàn cầu thể hiện rõ nét khả năng xóa mờ đi rào cản về biên giới lãnh thổ và khoảng cách địa lý đã luôn tồn tại trong thương mại truyền thống.
  • Thương mại điện tử có tính liên ngành và đa lĩnh vực: quy trình trong thương mại điện tử được chuẩn hóa, không chỉ tồn tại trong các hoạt động mua bán, cung ứng dịch vụ mà còn kết hợp các dịch vụ trung gian, các hoạt động xảy ra đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau.
  • Thương mại điện tử có sự đa dạng hóa của chủ thể tham gia và đối tượng được giao dịch: ngoài các chủ thể thương mại truyền thống, thương mại điện tử cần có sự tham gia của các chủ thể thứ ba là bên trung gian như các nhà cung cấp dịch vụ internet, dịch vụ logistic,…
Bảo hộ quyền tác giả trong lĩnh vực thương mại điện tử

2. Quy định về xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả trong lĩnh vực thương mại điện tử

Tại điều 28 Luật sở hữu trí tuệ hiện hành phân chia hành vi xâm phạm Quyền tác giả thành 4 nhóm chính:

  • Nhóm 1: Hành vi xâm phạm quyền nhân thân.
  • Nhóm 2: hành vi xâm phạm quyền tài sản.
  • Nhóm 3: Hành vi xâm phạm đến các biện pháp kỹ thuật.
  • Nhóm 4: hành vi xâm phạm gắn với môi trường số: cố ý phân phối, trưng bày hoặc truyền đạt tác phẩm đến công chúng qua mạng truyền thông và các phương tiện kỹ thuật số trái phép. Trách nhiệm pháp lý của các nhà cung cấp dịch vụ trung gian (ISP) khi không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ quy định để được miễn trừ trách nhiệm pháp lý theo quy định tại Điều 198b Luật sở hữu trí tuệ.

Khi có hành vi xâm phạm quyền tác giả xảy ra trên môi trường của một nền tảng website thương mại điện tử, các nhà cung cấp dịch vụ trung gian sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi do người dùng của mình tạo ra trừ trường hợp được miễn trừ theo khoản 3 Điều 198b Luật sở hữu trí tuệ.  Các nhà cung cấp dịch vụ trung gian có nghĩa vụ triển khai các biện pháp kỹ thuật, phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực thi các biện pháp bảo vệ quyền tác giả trên môi trường thương mại điện tử.

Ngoài ra theo nghị định 17/2023/NĐ-CP cũng quy định riêng mục 7 thuộc chương VI về doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian. Theo đó các doanh nghiệp này có chức năng “lưu trữ nội dung thông tin số theo yêu cầu” sẽ phải bỏ hoặc ngăn chặn việc truy nhập tới nội dung thông tin số theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo Điều 113 hoặc yêu cầu của  chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan theo Điều 114.

3. Các biện pháp bảo vệ quyền tác giả trên thương mại điện tử

Biện pháp tự bảo vệ: Đây là biện pháp được khuyến khích và ưu tiên áp dụng nhằm bảo vệ quyền tác giả chủ động từ phía chủ thể quyền, giảm thiểu những tranh chấp. Ngoài việc tự mình thực hiện quyền này thì chủ thể quyền tác giả có thể ủy quyền cho tổ chức, cá nhân khác áp dụng các biện pháp bảo vệ quyền.

Biện pháp dân sự: các biện pháp bảo vệ quyền tác giả do Tòa án áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm theo yêu cầu của chủ thể quyền được quy định tại Điều 202 Luật sở hữu trí tuệ. Bồi thường thiệt hại là là chế tài quan trọng nhất là mục đích chính của chủ sở hữu khi sử dụng biện pháp dân sự được quy định tại Điều 205 Luật sở hữu trí tuệ. Thời hiệu khởi kiện xâm phạm quyền tác giả có yêu cầu bồi thường thiệt hại là 3 năm (Điều 588) kể từ ngày người nhận yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, thời hiệu này không áp dụng đối với yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân.

Biện pháp hành chính: được các cơ quan có thẩm quyền áp dụng đối với hành vi xâm phạm quyền đối với tác phẩm bao gồm các hình thức xử phạt hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả và xử lý hàng hóa xâm phạm. Tùy vào tính chất, mức độ vi phạm mà mức phạt tối đa đối với cá nhân là 250 triệu đồng và đối với tổ chức là 500 triệu đồng (theo quy định tại Điều 2 Nghị định 131/2013/NĐ-CP).

Biện pháp hình sự: biện pháp hình sự được áp dụng đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả ở mức độ nguy hiểm có dấu hiệu cấu thành tội phạm do cá nhân hoặc pháp nhân thương mại thực hiện được quy định tại Điều 212 Luật sở hữu trí tuệ. Tùy vào tính chất mức độ của hành vi cá nhân vi phạm có thể bị phạt tiền lên đến 1 tỷ đồng hoặc phạt tù đến 3 năm. Còn đối với pháp nhân thương mại phạm tội có thể bị phạt tiền lên tới 3 tỷ đồng hoặc đình chỉ có thời hạn đến 2 năm. Ngoài ra còn phải chịu các hình phạt bổ sung khác.

Trên đây là bài viết “Bảo hộ quyền tác giả trong lĩnh vực thương mại điện tử”mà VCD gửi đến bạn. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Căn cứ xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả

Trong bối cảnh nền kinh tế tri thức ngày càng phát triển, quyền tác giả trở thành một trong những vấn đề quan trọng trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Hành vi xâm phạm quyền tác giả không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của tác giả và các tổ chức sáng tạo, mà còn gây ra những hệ lụy tiêu cực cho toàn xã hội. Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các tác giả, việc xác định rõ ràng các căn cứ và tiêu chí để nhận diện hành vi xâm phạm là vô cùng cần thiết. Bài viết của VCD dưới đây sẽ giúp bạn.

1. Hành vi xâm phạm quyền tác giả là gì

Quyền tác giả bao gồm quyền nhân than và quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả theo quy định tại Điều 19 và Điều 20 của Luật sở hữu trí tuệ hiện hành.

Hành vi xâm phạm quyền tác giả thông thường là những hành vi dưới dạng hành động, làm ảnh hưởng đến sự toàn vẹn tác phẩm, xâm phạm những giá trị nhân thân, uy tín, danh tiếng của tác giả hoặc khai thác, sử dụng tác phẩm bát hợp pháp.

Bản chất của hành vi xâm phạm quyền tác giả là sự khai thác bất hợp pháp tức là sử dụng những quyền thuộc độc quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả mà không có sự cho phép, không tôn trọng quyền của chủ sở hữu đó. Các hành vi xâm phạm quyền tác giả này trên thực tế rất đa dạng và chủ thể xâm phạm cũng khác nhau.

2. Căn cứ xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả

Theo Điều 64 Nghị định 17/2023/ND-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả quyền liên quan, căn cứ xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả dựa trên các căn cứ sau:

Thứ nhất, đối tượng bị xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo hộ quyền tác giả được quy định tại Điều 14 Luật sở hữu trí tuệ hiện hành. Các đối tượng này phải đáp ứng các điều kiện về căn cứ xác lập quyền theo quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 6 Luật sở hữu trí tuệ.

Thứ hai, có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét. Những yếu tố xâm phạm phổ biến trong hành vi xâm phạm quyền tác giả là việc sửa chữa, cắt xén tác phẩm làm ảnh hưởng đến tính nguyên gốc, sao chép tác phẩm một cách bất hợp pháp hay sử dụng tác phẩm mà không xin phép cũng như không trả tiền cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.

Thứ ba, người thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan. Trường hợp có nhiều đồng tác giả hoặc đồng chủ sở hữu quyền tác giả, hành vi xâm phạm có thể diễn ra giữa các đồng tác giả hoặc đồng chủ sở hữu khi một trong số họ thực hiện hành vi mà không có sự đồng ý từ các bên còn lại. Các hành vi xâm phạm sẽ bị coi là vi phạm nếu người thực hiện không được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép, theo các quy định tại khoản 3 Điều 20, khoản 5 Điều 29, khoản 3 Điều 30, khoản 3 Điều 31 và các điều 25, 25a, 26, 32 và 33 của Luật Sở hữu trí tuệ.

Thứ tư, hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam. Các hành vi vi phạm diễn ra trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam sẽ bị áp dụng theo quy định của pháp luật Việt Nam. Nếu hành vi xâm phạm diễn ra qua mạng viễn thông hoặc mạng Internet, nó cũng được coi là xảy ra tại Việt Nam khi: người tiêu dùng hoặc người sử dụng nội dung thông tin số là người ở Việt Nam và nội dung vi phạm được truy cập hoặc khai thác từ Việt Nam.

Căn cứ xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả

3. Một số biện pháp khắc phục tình trạng xâm phạm quyền tác giả

Đăng ký quyền tác giả cho tác phẩm: là một bước quan trọng, giúp tác giả có được bằng chứng pháp lý về quyền sở hữu. Việc này không chỉ bảo vệ quyền lợi của tác giả mà còn tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc giải quyết tranh chấp nếu có xảy ra. Nhờ đó, tác giả có thể ngăn chặn hiệu quả các hành vi xâm phạm quyền lợi của mình.

Nâng cao ý thức tôn trọng quyền tác giả của người dân và ý thức tự bảo vệ của chủ thể quyền: ý thức tôn trọng quyền tác giả là một trong những điều kiện quan trọng nhất ảnh hưởng đến việc thực thi, bảo vệ quyền tác giả tại một quốc gia. Nếu người dân có ý thức tốt trong việc bảo vệ quyền tác giả thì hành vi xâm phạm có thể được ngăn ngừa và ngăn chặn. Ngoài ra nhà nước cần tăng cường giáo dục kiến thức về quyền tác giả, quyền liên quan trong nhà trường và các cơ sở giáo dục khác.

Nâng cao vai trò của các tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả: Các tổ chức đại diện tập thể quyền giữ nhiệm vụ trung gian giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả với tổ chức cá nhân có nhu cầu khai thác, sử dụng tác phẩm đặc biệt là trong vấn đề thu phí tác quyền. Do đó việc phát huy tốt vai trò của tổ chức đại diện tập thể ngoài việc giúp ích cho tác giả còn góp phần làm ổn định và hạn chế hành vi xâm phạm quyền hiện nay, hỗ trợ cho hoạt động quản lý của nhà nước.

Áp dụng một số biện pháp công nghệ: có thể áp dụng các biện pháp công nghệ như sử dụng phần mềm bảo vệ bản quyền (DRM, watermarking), ứng dụng blockchain để xác thực quyền sở hữu, triển khai hệ thống giám sát trực tuyến và áp dụng trí tuệ nhân tạo để phát hiện vi phạm. Ngoài ra, phát triển nền tảng chia sẻ nội dung hợp pháp, xây dựng hệ thống báo cáo vi phạm và tổ chức các khóa học trực tuyến về quyền tác giả cũng là những giải pháp hiệu quả.

Trên đây là bài viết “Căn cứ xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả”mà VCD gửi đến bạn.

Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,