Skip to main content

Tác giả: Biên Tập Viên

ChatGPT và vấn đề về quyền tác giả

Kể từ khi ra mắt đến nay, một siêu trí tuệ có sức mạnh khủng khiếp, có thể đe dọa đến sự xóa sổ của hàng chục nghề nghiệp trong tương lai là ChatGPT vẫn đang không ngừng làm mưa làm gió. Tuy nhiên, bên cạnh sự tiện năng của mình, ChatGPT vẫn đặt ra nhiều tranh cãi xung quanh vấn đề bản quyền. Vì vậy, bài viết dưới đây sẽ tập trung chỉ ra ChatGPT và vấn đề về quyền tác giả

1. Chat GPT là gì?

Chat GPT là viết tắt của Chat Generative Pre-training Transformer đây là ứng dụng được Công ty OpenAI cho ra mắt vào tháng 11 năm 2022. ChatGPT là một mô hình sử dụng công nghệ AI để xử lý ngôn ngữ, có khả năng tạo văn bản giống với con người chỉ với những từ khóa cơ bản. Hiểu một cách đơn giản, công cụ này xử lý ngôn ngữ tự nhiên và có thể được dùng như một trợ lý trò chuyện như con người. Một điểm đáng chú ý chính là việc tương tác dưới dạng đàm thoại và đưa ra những phản hồi rất đáng kinh ngạc.

Công cụ này thậm chí còn có thể tạo ra những hình ảnh và video mới dựa trên những gì nó đã học được từ cơ sở dữ liệu khổng lồ là các cuốn sách điện tử (e-books), các bài viết trực tuyến và các phương tiện khác. Với tiềm năng ứng dụng to lớn đó, ChatGPT được đánh giá là một trong những đối thủ đáng gờm của Google. Thậm chí, nhiều người tin rằng, ChatGPT sẽ khiến cho nhiều nghề nghiệp “ra chuồng gà” vì độ thông minh và tốc độ xử lý nhanh chóng của nó.

Và một trong những ảnh hưởng mà ChatGPT gây ra chính là đối với ngành xuất bản sách. Theo một báo cáo mới đây, tính đến giữa tháng 2/2023 đã có hơn 200 sách điện tử trong cửa hàng Kindle đề tên ChatGPT là tác giả hoặc đồng tác giả. Trên thư viện sách Amazon còn có thêm một số mục về sách được hỗ trợ bởi ChatGPT hoặc sách được viết hoàn toàn bởi siêu AI. Với những gì đang diễn ra, AI đang bị lo ngại sẽ tác động lớn đến ngành xuất bản.

2. Vấn đề pháp lý đặt ra

2.1. Nội dung do ChatGPT tạo ra có được bảo hộ bản quyền?

Mặc dù đem đến nhiều tiện ích cho người dùng, nhưng ChatGPT vẫn gây ra nhiều e ngại liên quan đến vấn đề đạo đức như khả năng truyền bá tin giả, tiếp tay cho kẻ xấu lừa đảo… Và một trong những khía cạnh được nhiều người quan tâm hơn cả là khía cạnh bản quyền của những tác phẩm do công cụ này tạo ra.

Thứ nhất, về vấn đề quyền tác giả đối với các tác phẩm tạo ra bởi ChatGPT, theo Luật bản quyền của hầu hết các quốc gia trên thế giới, chỉ có những tác phẩm được tạo ra bởi con người mới được bảo hộ bản quyền. Ví dụ như Luật Quyền tác giả Hợp chủng quốc Hoa Kỳ quy định để một tác phẩm được bảo vệ bản quyền, tác phẩm đó phải được sáng tạo bởi con người, không có đầu vào là sự sáng tạo của con người, một tác phẩm sẽ không được bảo vệ quyền tác giả. Và Việt Nam không ngoại lệ khi Luật Sở hữu trí tuệ quy định tại khoản 1 Điều 12a Văn bản Hợp nhất 11/VBHN – VPQH 2022, Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “Tác giả là người trực tiếp sáng tạo tác phẩm”.

Điều này được quy định hợp lý vì để đăng ký quyền tác giả đối với một tác phẩm sẽ phải trải qua nhiều công đoạn từ làm hồ sơ, nộp hồ sơ đến theo dõi phản hồi của Văn phòng Bản quyền hay ở Việt Nam là Cục Bản quyền tác giả, do vậy, việc ChatGPT đăng ký bản quyền có thể sẽ gặp những trở ngại lớn.

2.2. Trường hợp các tác phẩm do ChatGPT tạo ra được bảo hộ quyền tác giả thì ai là chủ sở hữu?

Chỉ trong vòng 30s, ChatGPT hoàn toàn có thể tạo ra một bài thơ ngắn hay một đoạn văn. Vậy bài thơ hay các tác phẩm do ChatGPT tạo ra thì ai sẽ là chủ sở hữu? Hiện nay có ba quan điểm khác biệt như sau:

  • Quan điểm thứ nhất cho rằng ChatGPT được xem là chủ sở hữu vì các lý do sau:

Một trong những điểm khiến ChatGPT được đánh giá cao hơn các công cụ khác như Google Search là ChatGPT tự tổng hợp thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, rồi tạo ra một câu trả lời theo cách hiểu và phương trình của nó, chứ không phải dựa vào trí tuệ, kiến thức của người dùng.

Hơn nữa, theo khoản 1 Điều 13 Văn bản Hợp nhất Luật sở hữu trí tuệ quy định: “Tổ chức, cá nhân có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả gồm người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm…” Vì vậy, ChatGPT mới được coi là chủ sở hữu quyền tác giả của tác phẩm mình tạo ra.

  • Quan điểm thứ hai cho rằng ChatGPT không phải là chủ sở hữu vì các lý do sau:

Đầu tiên, Chat GPT đưa ra câu trả lời sau khi người dùng đặt câu hỏi – không thể chủ động tạo ra tác phẩm được.

Tiếp đó, giữa người dùng và nền tảng này có xác lập một giao dịch dân sự (dù người dùng bỏ tiền ra hay sử dụng miễn phí) mà theo đó, người dùng được trao quyền sở hữu nguồn tài nguyên có sẵn trên hệ thống dữ liệu của ChatGPT. Người dùng ở đây có quyền yêu cầu ChatGPT xuất bản một tác phẩm hay trả lời bất cứ câu hỏi nào của người dùng. Theo khoản 2 Điều 39 Văn bản Hợp nhất Luật sở hữu trí tuệ: “Tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng với tác giả sáng tạo ra tác phẩm là chủ sở hữu các quyền quy định tại Điều 20 và khoản 3 Điều 19 của Luật này”. Do vậy, người sử dụng ChatGPT để tạo ra tác phẩm có thể được công nhận chủ sở hữu quyền tác giả.

  • Quan điểm thứ ba cho rằng cả ChatGPT và người dùng đều được xác định là đồng chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm do ChatGPT tạo ra.

Nếu xem ChatGPT là tác giả tạo ra tác phẩm thì thông qua việc được cấp quyền để dùng các chức năng có sẵn của ChatGPT thì người dùng là bên đã thuê ChatGPT tạo ra tác phẩm. Ở đây, ChatGPT sẽ có quyền nhân thân, bao gồm quyền đặt tên tác phẩm, đứng tên tác giả khi tác phẩm được công bố và bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm do chính ChatGPT tạo ra; còn người dùng có quyền tài sản như quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng, sao chép tác phẩm, phân phối, cho thuê tác phẩm.

Tuy nhiên, trước khi xác định ai là chủ sở hữu quyền tác giả đối với các tác phẩm mà ChatGPT tạo ra thì cần phải cân nhắc đến một yếu tố nữa là “Điều khoản sử dụng dịch vụ” của ChatGPT. Nếu như Điều khoản sử dụng dịch vụ này có quy định rằng Chat GPT hoặc đơn vị tạo ra nền tảng này mới chính là tác giả và chủ sở hữu toàn vẹn quyền tác giả của tác phẩm do Chat GPT tạo ra, thì khi đó người dùng nền tảng này sẽ không có đầy đủ các quyền của một chủ tác quyền như không có quyền sửa chữa, cắt xén tác phẩm, biểu diễn, phân phối tác phẩm đó.

3. Kết luận

Theo như quan điểm truyền thống, một tác phẩm được tạo ra là thường tốn rất nhiều công sức, tiền bạc và là thành quả của tác giả hoặc cá nhân, tổ chức. Vì vậy, pháp luật bảo hộ quyền và lợi ích của họ bằng các trao cho các chủ thể này quyền tác giả để ghi nhận trí tuệ, sức lao động của chính tác giả, đặc biệt các tác phẩm thơ ca, văn chương hay tác phẩm biểu diễn.

Tuy nhiên, xã hội ngày càng phát triển kéo, công nghệ hiện đại ngày càng đổi mới và sự ra đời của các siêu trí tuệ nhân tạo là một thách thức đối với quy định pháp luật nói chung và quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ nói riêng. Bởi vì khác với con người là sử dụng đầu óc và định hình tác phẩm dưới một hình thức vật chất nhất định để tạo ra tác phẩm thì ChatGPT lại tập hợp kiến thức, dữ liệu và được lập trình sẵn trong một nền tảng công nghệ nên việc tạo ra một tác phẩm hay ho chỉ tốn 3 giây hoặc ngắn hơn.

Do vậy, việc sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ sao cho phù hợp là một điều cần thiết và thiết thực đối với thực tiễn ngày nay.

Trên đây là bài viết “ChatGPT và vấn đề về quyền tác giả”. Hy vọng bài viết này sẽ giúp ích cho các bạn.

THÔNG BÁO: Về việc nhận ủy quyền thu phí bản quyền của ca sĩ Yanbi

Ca sĩ Yanbi là một trong những hiện tượng của giới Underground, và một trong những tác phẩm làm nên tên tuổi của ca sĩ Yanbi là bài hát “Thu cuối” đình đám đến tận hôm nay. Liên quan đến vấn đề thu phí bản quyền bài hát, VCD có thông báo như sau:

Ngày 11/05/2023 Hợp đồng ủy quyền quản lý quyền tác giả âm nhạc giữa Yanbi và Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam (“VCPMC”) đã được thanh lý.

Kể từ ngày 12/05/2023, Công ty Cổ phần Phát triển Bản quyền Việt Nam (“VCD”) sẽ là đại diện cho Yanbi quản lý và kinh doanh quyền tác giả đối với các tác phẩm do Yanbi là tác giả và là đồng tác giả theo Hợp đồng Hợp tác quản lý quyền tác giả số 16523/HĐHT-VCD ngày 16 tháng 05 năm 2023.

Vì vậy, mọi công việc liên quan đến quản lý và kinh doanh quyền tác giả đối với các tác phẩm mà Yanbi sở hữu hợp pháp sẽ do VCD đại diện và phụ trách. Các quý đối tác, tổ chức và cá nhân có nhu cầu xin phép sử dụng và trả phí bản quyền các tác phẩm do Yanbi là tác giả và đồng tác giả vui lòng liên hệ với VCD để được hỗ trợ và giải quyết.

Một lần nữa, VCD cảm ơn ca sĩ Yanbi đã tin tưởng và chúc ca sĩ Yanbi ngày càng thành công hơn nữa trên con đường sự nghiệp của mình.

Trân trọng./.

Phân tích vụ việc quản lý ca sĩ Đ.T kiện 3 ca sĩ Việt

Những ngày gần đây, cộng đồng mạng xôn xao trước thông tin ông bầu H.T – quản lý của ca sĩ Đ.T kiện ba ca sĩ Việt là T.T, D.E và B.C vì vấn đề bản quyền. Vậy vụ việc này dưới góc nhìn Luật Sở hữu trí tuệ nói chung sẽ như nào? Mời các bạn theo dõi bài viết “Phân tích vụ việc quản lý ca sĩ Đ.T kiện 3 ca sĩ Việt” dưới đây của VCD.

1. Toàn cảnh vụ việc

Vào cuối năm 2022, quản lý Đ.T từng cho biết D.E xin phép cover 3 ca khúc Mưa trên cuộc tình, Tình đơn phương, Cuộc tình trong cơn mưa nhưng chỉ đồng ý cho nam ca sĩ đăng tải bản thu âm lên YouTube, không đồng ý việc sử dụng nhằm mục đích biểu diễn. Theo ông H.T, cả 3 ca khúc này đều được D.E biểu diễn ở nhiều show khác nhau mà không có sự xin phép. Vụ việc cũng xảy ra tương tự với ca sĩ T.T và B.C.

Quản lý của ca sĩ Đ.T khẳng định dù đã nhắc nhở nhưng một số ca sĩ vẫn ngang nhiên sử dụng. Chính vì vậy, phía quản lý của ca sĩ Đ.T đã thông qua luật sư để tiến hành khởi kiện ra tòa án các ca sĩ như D.E, T.T, B.C. Bên cạnh đó, YouTube cũng đã gỡ các bài sử dụng trái phép.

Sau khi đăng tải thông tin lên trang cá nhân, quản lý của T.T đã liên hệ xin lỗi và chịu chi phí thuê luật sư nên quản lý của ca sĩ Đ.T rút đơn khởi kiện.

Sau đó, chiều 30-10, đơn vị quản lý kênh YouTube của ca sĩ B.C – cũng đã liên hệ phía công ty của ca sĩ Đ.T để xin lỗi và chịu trả phần chi phí thuê luật sư nên cũng rút đơn khởi kiện.

Riêng trường hợp của D.E, ông bầu H.T cho biết sẽ kiện đến cùng với lý do nhiều lần liên hệ mà không có phản hồi.

2. Vấn đề pháp lý đặt ra

2.1. Ca sĩ Đ.T có quyền đối với 3 tác phẩm này không?

Thời kỳ thập niên 90s, 00s nhạc Hoa lời Việt như là 1 cơn sốt càn quét khắp 3 miền Bắc – Trung – Nam tại nước ta. Có thể nói, mọi đầu báo, truyền thông, Radio và thói quen nghe nhạc của người dân lúc bấy giờ luôn ưu tiên các bản nhạc Hoa lời Việt. Hòa cùng với xu hướng đó, không thể không kể đến ca sĩ Đ.T với những tác phẩm Mưa trên cuộc tình, Tình đơn phương, Cuộc tình trong cơn mưa đã làm xao xuyến biết bao thế hệ. Một hai năm trở lại đây, sức hút của các bản nhạc Hoa lời Việt như được bùng nổ trở lại với sự thể hiện của nhiều ca sĩ trẻ, kéo theo đó là sức hút của các bản nhạc xưa. Nhưng thật không may, song song với sự trở lại đầy mạnh mẽ này lại xảy ra nhiều vấn đề liên quan đến bản quyền âm nhạc. Vậy, trước hết ca sĩ Đ.T có quyền đối với 3 tác phẩm này không?

Về phần nhạc, cả ba tác phẩm này đều có nguồn gốc là nhạc Hoa. Còn về phần lời, cả ba tác phẩm đều được phổ cập thành lời Việt. Theo Luật Sở hữu trí tuệ, cả ba tác phẩm này đều là tác phẩm phái sinh (khoản 8 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ) và thuộc đối tượng được bảo hộ quyền tác giả. Về cơ bản, một tác phẩm không cần phải đăng ký quyền tác giả mới được pháp luật bảo vệ mà quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.

  • Trường hợp ca sĩ Đ.T chứng minh những tác phẩm này đã được sự đồng ý của tác giả hoặc chủ sở hữu để làm tác phẩm phái sinh và chứng minh được là tác giả hoặc chủ sở hữu của ba tác phẩm phái sinh trên thì ca sĩ Đ.T có quyền đối với 3 tác phẩm. Và một trong những căn cứ thuyết phục nhất để chứng minh quyền của mình là Giấy chứng nhận quyền tác giả, nếu không có Giấy chứng nhận đăng ký thì ca sĩ Đ.T sẽ phải chứng minh mình là tác giả hoặc là chủ sở hữu quyền tác giả tác phẩm bằng rất nhiều tài liệu, chứng cứ thể hiện rõ thời điểm hoàn thành tác phẩm và độ tin cậy của các tài liệu, chứng cứ này trước cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp.
  • Trường hợp ca sĩ Đ.T không chứng minh được những tác phẩm trên được sự đồng ý của tác giả hoặc chủ sở hữu để làm tác phẩm phái sinh và chứng minh được là tác giả hoặc chủ sở hữu của ba tác phẩm phái sinh trên thì sẽ không có quyền đối với ba bài hát này và không có cơ sở để kiện ba ca sĩ trên.

2.2. Ca sĩ T.T, D.E và B.C có quyền hát ba tác phẩm trên không?

Theo như tìm hiểu, cuối năm 2022, quản lý của ca sĩ Đ.T đã đồng ý cho ba ca sĩ trên đăng tải bản thu âm ba bài hát Mưa trên cuộc tình, Tình đơn phương và Cuộc tình trong cơn mưa nhưng không đồng ý việc sử dụng nhằm mục đích biểu diễn. Tuy nhiên, điểm a khoản 1 Điều 26 Luật Sở hữu trí tuệ quy định các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền, phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm bao gồm:

“a) Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố, tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép định hình trên bản ghi âm, ghi hình công bố nhằm mục đích thương mại để phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng. Mức tiền bản quyền và phương thức thanh toán do các bên thỏa thuận; trường hợp không đạt được thỏa thuận thì thực hiện theo quy định của Chính phủ.”

Như vậy, theo Luật Sở hữu trí tuệ, ba ca sĩ trên có quyền hát các ca khúc này mà không cần phải xin phép, tuy nhiên phải trả phí bản quyền cho tác giả hoặc chủ sở hữu bài hát kể từ khi sử dụng, và mức tiền sẽ được quyết định theo thỏa thuận hai bên, trường hợp không đạt được thỏa thuận thì sẽ căn cứ theo khoản 3 Điều 34 Nghị định 17/2023 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan:

“3. Tỷ lệ phân chia tiền bản quyền trong trường hợp bản ghi âm, ghi hình được sử dụng theo quy định tại khoản 1 Điều 26 và khoản 1 Điều 33 của Luật Sở hữu trí tuệ thực hiện theo thoả thuận của chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, chủ sở hữu quyền liên quan đối với bản ghi âm, ghi hình đó. Trường hợp không đạt được thỏa thuận thì thực hiện phân chia theo tỷ lệ như sau: Chủ sở hữu quyền tác giả hưởng 50%, người biểu diễn hưởng 25%, chủ sở hữu quyền liên quan đối với bản ghi âm, ghi hình hưởng 25% trên tổng số tiền bản quyền thu được”.

2.3. Việc ca sĩ Đ.T và công ty chủ quản yêu cầu YouTube gỡ các video của D.E có sử dụng ba bài hát trên là đúng hay sai?

Sau khi nhận được lời xin lỗi từ ca sĩ T.T và B.C, phía công ty chủ quản của ca sĩ Đ.T đã có thái độ tích hơn và thu hồi đơn khởi kiện. Tuy nhiên, điều này lại không được áp dụng với phía ca sĩ D.E. Vì vậy, ông bầu H.T có một câu nói đanh thép “quyết kiện đến cùng” và yêu cầu ca sĩ D.E gỡ bỏ các video sử dụng bài hát trên YouTube.

Theo như tìm hiểu, để có thể sử dụng ba bài hát Mưa trên cuộc tình, Tình đơn phương, Cuộc tình trong cơn mưa, công ty chủ quản của ca sĩ Đ.T và ca sĩ D.E phải có Hợp đồng dịch vụ riêng, theo đó phải quy định cụ thể các điều khoản liên quan đến sử dụng ba bài hát trên. Tuy nhiên, phía ca sĩ D.E vẫn “ngang nhiên” sử dụng và biểu diễn tại các liveshow ca nhạc, đăng tải lên YouTube đã chạm vào “vảy ngược” của đại diện công ty chủ quản của ca sĩ Đ.T, khiến ông bầu H.T yêu cầu YouTube gỡ bỏ video có sử dụng ba bài hát trên. Liệu điều này có đang xâm phạm quyền theo thỏa thuận Hợp đồng của hai bên?

Mặc dù, có thể trong trường hợp này, phía ca sĩ D.E đã có vi phạm, nhưng chưa chắc hành vi yêu cầu YouTube gỡ bỏ bài hát của ông bầu H.T đã đúng vì nếu đã vi phạm thì phải bị xử lý theo quy định của pháp luật và ông bầu H.T cũng như công ty chủ quản của ca sĩ Đ.T chỉ có thể yêu cầu gỡ bỏ nếu điều này được đề cập trong Hợp đồng giữa hai bên. Như vậy, cần nhấn mạnh một điều là các bên khi đã tham gia quan hệ Hợp đồng thì cần phải có sự tôn trọng và tuân thủ các quy định mà mình đã thỏa thuận.

3. Kết luận

Vụ việc trên chưa biết ai đúng ai sai, nhưng có thể thấy là quyền tác giả (hay bản quyền) đang ngày càng được tôn trọng và được pháp luật quy định rất cụ thể để bảo vệ quyền và lợi ích của tác giả và chủ sở hữu. Tuy nhiên, đây là một trong những vấn đề rất phức tạp, đòi hỏi nghệ sĩ và công ty chủ quản có đủ kiến thức, kinh nghiệm để giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền tác giả, hạn chế xảy ra những vụ việc như trên.

Trên đây là bài viết: “Phân tích vụ việc quản lý ca sĩ Đ.T kiện 3 ca sĩ Việt”. Hy vọng bài viết sẽ giúp ích cho các bạn.

Hiệu lực bảo hộ quyền tác giả theo Công ước quốc tế

Ngày 26/10/2004, Việt Nam gia nhập Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật. Sau nhiều lần sửa đổi, Công ước Berne đang đáp ứng được những yêu cầu bảo hộ Quyền tác giả trong thời đại công nghệ 4.0 hiện nay. Vì vậy, là thành viên của Công ước Berne, Việt Nam đã từng bước nghiên cứu và ban hành các quy định về Sở hữu trí tuệ đáp ứng yêu cầu mà Công ước này đặt ra cho các Quốc gia thành viên, trong đó phải kể đến hiệu lực bảo hộ quyền tác giả theo Công ước quốc tế.

1. Bảo hộ quyền tác giả là gì?

Theo Từ điển Tiếng Việt thì “bảo hộ” có nghĩa là sự che chở và không dễ bị tổn thất. Như vậy, bảo hộ quyền tác giả chính là sự đảm bảo của Nhà nước đối với các tác phẩm để các tác phẩm đó không bị xâm phạm hay tổn thất bởi người khác. Thông qua các quy định của pháp luật để xác định các quyền của các chủ thể đối với tác phẩm, xác định hành vi bị coi là xâm phạm cũng như thiết lập các phương thức bảo vệ quyền của tác giả, Nhà nước thực hiện nhiệm vụ bảo hộ của mình một cách thuyết phục nhất. Ở Việt Nam, khái niệm bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ lần đầu được quy định trong Phần thứ V của Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam.

Bảo hộ quyền tác giả theo công ước Berne Là tuân thủ các quy định về bảo hộ quyền tác giả theo như :

  • Về đối tượng: căn cứ điều 2 công ước Berne như sau:
    • 1. Tác phẩm văn học và nghệ thuật; 
    • 2. Khả năng yêu cầu sự định hình;
    • 3. Tác phẩm phái sinh; 
    • 4. Văn bản chính thức;
    • 5. Sưu tập;
    • 6. Nghĩa vụ bảo hộ, chủ thể hưởng sự bảo hộ; 
    • 7. Tác phẩm mĩ thuật ứng dụng và kiểu dáng công nghiệp;
    • 8. Tin tức
  • Hình thức của tác phẩm được bảo hộ: phải được thể hiện dưới dạng vật chất.
  • Thời hạn bảo hộ.
  • Ngoài ra, liên quan đến quyền bảo hộ còn phải tuân thủ các nguyên tắc như:
    • (1) Nguyên tắc đối xử quốc gia;
    • (2) Bảo hộ đương nhiên;
    • (3) Bảo hộ độc lập.

2. Quyền tác giả có hiệu lực quốc tế không?

Một tác phẩm sáng tạo được coi là được bảo hộ quyền tác giả ngay khi được tạo ra. Theo hai công ước quốc tế về quyền tác giả (đặc biệt là Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật), các tác phẩm văn học và nghệ thuật được bảo hộ mà không cần tiến hành thủ tục bất kỳ tại nước thành viên của các công ước này (151 quốc gia tính đến tháng 8 năm 2003 – danh sách các quốc gia thành viên ở Phụ lục VII). Quy định này cũng được áp dụng đối với tất cả thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới.

Quyền tác giả được quy định khá rông trong công ước Berne. Tuy nhiên, căn cứ vào Điều 3 và Điều 5 Công ước Berne quy định về quy tắc bảo hộ quyền tác giả quốc tế khá chi tiết như sau:

  • Về quy mô: tác phẩm được bảo hộ có thể là của công dân của một nước là thành viên của Công ước Berne hoặc không phải nhưng là công dân của một trong những nước là thành viên của Liên hiệp mà công bố lần đầu tiên ở một trong những nước thành viên của Liên hiệp, có nơi cư trú thường xuyên ở một trong những nước trên vẫn được tự động bảo hộ kể cả đã đăng kí văn bằng bảo hộ hay chưa.
  • Về pháp luật điều chỉnh: ngoài công ước này, việc bảo hộ quyền tác giả còn được điều chỉnh bởi pháp luật của quốc gia gốc. Điều 5 quy định về quốc gia gốc như sau:

“a) Quốc gia thành viên Liên hiệp, nơi tác phẩm được công bố lần đầu tiên. Tuy nhiên, nếu là tác phẩm được công bố đồng thời ở nhiều nước thành viên Liên hiệp có thời hạn bảo hộ khác nhau thì Quốc gia gốc của tác phẩm là Quốc gia có thời hạn bảo hộ ngắn nhất”.

Vì vậy, không có thủ tục đăng ký quốc tế để bảo hộ quyền tác giả như sáng chế, nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp. Trong khi không có thủ tục quốc tế nào về đăng ký bảo hộ quyền tác giả ở nước ngoài và tác phẩm của bạn sẽ tự động được bảo hộ mà không cần đăng ký ở tất cả các quốc gia thành viên của Công ước Berne.

Mặc dù vẫn còn một vài điểm khác biệt nhưng Công ước Berne và Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam đều quy định bảo hộ các tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ. Ngoài ra, công ước Berne và Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam cũng đều quy định về việc bảo hộ đương nhiên, cụ thể là một tác phẩm được tạo ra bởi trí tuệ sẽ được tự động bảo hộ kể cả công bố, đăng kí văn bằng bảo hộ hay chưa.

Trên đây là bài viết: “Hiệu lực bảo hộ quyền tác giả theo Công ước quốc tế”. Hy vọng bài viết sẽ giúp ích cho các bạn”.

Không đăng ký bản quyền tác giả, tác phẩm có được bảo hộ không?

Đối với tác giả hay chủ sở hữu tác phẩm, việc đăng ký quyền tác giả sẽ là sự ghi nhận công sức, sự sáng tạo của họ, là lá bùa hộ mệnh để chứng minh nếu như có tranh chấp xảy ra. Tuy nhiên, thực tế, vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều xoay quanh việc đăng ký quyền tác giả. Và, liệu không đăng ký bản quyền tác giả, tác phẩm có được bảo hộ không? Hãy cùng theo dõi bài viết của chúng tôi dưới đây.

1. Đăng ký bản quyền tác giả là gì?

“Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu” căn cứ theo khoản 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ. Quyền tác giả được ghi nhận cho các tác phẩm văn học, nghệ thuật, sách, bài giảng, tác phẩm âm nhạc, tác phẩm sân khấu, tác phẩm điện ảnh, phần mềm máy tính… Khi một tác phẩm được sáng tạo thì tác giả, hay chủ sở hữu tác phẩm sẽ có quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm đó.

Đăng ký quyền tác giả là việc mà tác giả, chủ sở hữu làm thủ tục đăng ký với cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật nhằm mục đích xác lập, tuyên bố quyền sở hữu hợp pháp đối với tác phẩm thông qua Giấy chứng nhận. Đây như là một sự công nhận có căn cứ theo pháp luật cho sự sáng tạo; công sức của tác giả với đứa con tinh thần của họ. Hiện nay, việc đăng ký bản quyền tác giả không phải là bắt buộc nhưng chỉ những chủ thể có đủ điều kiện sau mới có quyền đăng ký quyền tác giả:

  • Tổ chức, cá nhân có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả gồm người trực tiếp sáng tạo ra sản phẩm, chủ sở hữu tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam như trên.
  • Theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ, tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm có thể là cá nhân, pháp nhân trong nước hoặc cá nhân, pháp nhân nước ngoài đều có quyền nộp đơn đăng ký bản quyền tác giả  cho tác phẩm của mình tại Cục Bản quyền tác giả.

Khi tiến hành nộp đơn đăng ký cá nhân, pháp nhân trong nước có thể trực tiếp hoặc ủy quyền cho tổ chức đại diện quyền tác giả thay mặt mình nộp đơn đăng ký tới cơ quan đăng ký. Đối với cá nhân, pháp nhân nước ngoài muốn đăng ký bản quyền tác giả  tại Việt Nam sẽ ủy quyền cho tổ chức đại diện quyền tác giả nộp đơn đăng ký cho tác phẩm tại Việt Nam.

2. Căn cứ phát sinh quyền tác giả

Theo khoản 1 Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay ch­ưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký”. Theo đó, quyền tác giả được bảo hộ khi thỏa mãn 02 điều kiện:

  •  Có tính định hình (fixation): thể hiện dưới dạng vật chất nhất định;
  • Có tính nguyên gốc (originalilty): được hiểu là do chính tác giả sáng tạo ra tác phẩm, và tác phẩm này phải là kết quả của sự sáng tạo nguyên bản đầu tiên.

Vì vậy, ngay sau khi hoàn thành tác phẩm và mặc dù chưa tiến hành thủ tục đăng ký bản quyền, quyền tác giả vẫn sẽ phát sinh từ thời điểm đó. Khi có tranh chấp xảy ra, bên cạnh căn cứ theo Giấy chứng nhận bản quyền tác giả, Cơ quan Nhà nước sẽ căn cứ theo thời điểm mà tác phẩm đó được sáng tạo và định hình dưới một hình thức vật chất nhất định.

3. Tác dụng của việc đăng ký quyền tác giả

Mặc dù đăng ký bản quyền không phải là bắt buộc. Tuy nhiên nếu tác giả chủ sở hữu tác phẩm đăng ký bản quyền tác giả với Cục bản quyền tác giả sẽ mang lại rất nhiều thuận lợi. Sau khi làm thủ tục đăng ký quyền tác giả thì tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm được cấp Giấy chứng nhận bản quyền tác giả. Đây là sự chứng nhận cho sự sáng tạo của tác giả các phần thưởng xứng đáng, động viên tinh thần làm việc cho người sáng tạo. Đặc biệt, việc đăng ký sẽ là cơ sở xác nhận thời điểm phát sinh quyền tác giả, quyền của chủ sở hữu tác phẩm.

Giấy chứng nhận đăng ký bản quyền tác giả nhằm đảm bảo cho người sáng tạo ra tác phẩm chống lại các hành vi sử dụng trái phép tác phẩm như: ăn trộm, sao chép, lạm dụng tác phẩm đó.

Trong trường hợp có tranh chấp xảy ra, Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả là bằng chứng tốt nhất chứng minh quyền sở hữu của tác giả đối với tác phẩm. Bởi vì, trong thực tế việc chứng minh quyền sở hữu tác phẩm khi chưa được đăng ký bảo hộ là rất khó khăn.

Nếu tác giả phát hiện có người sử dụng trái phép tác phẩm của mình, tác giả có thể yêu cầu người sử dụng đó ngừng sử dụng và có thể đòi bồi thường thiệt hại. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi tác giả đã đăng ký bản quyền tác giả.

Giấy chứng nhận bản quyền tác giả là một loại giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tác phẩm, được sử dụng khi định giá tài sản của công ty trong trường hợp cổ phần hóa, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.

Trên đây là bài viết “Không đăng ký bản quyền tác giả, tác phẩm có được bảo hộ không?”. Hy vọng bài viết sẽ giúp ích cho các bạn.

Đăng ký quyền tác giả và một số khó khăn thực tế

Việc đăng ký quyền tác giả đối với các tác phẩm đã và đang trở thành một thủ tục tất yếu khi vấn đề xâm phạm bản quyền, sử dụng mà không xin phép sự đồng ý của tác giả diễn ra ngày một phổ biến. Tuy nhiên, thực tế việc đăng ký quyền tác giả là một thủ tục phức tạp, đòi hỏi nhiều kinh nghiệm, dẫn đến thực trạng nhiều tác giả hay các chủ thể khác đăng ký thường sẽ gặp phải những khó khăn nhất định. Vì vậy, bài viết này sẽ tập trung khai thác về đăng ký quyền tác giả và một số khó khăn thực tế

1. Thủ tục đăng ký quyền tác giả

Quyền tác giả tự động phát sinh từ thời điểm tác phẩm được sáng tạo dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký. Theo đó, quyền tác giả được bảo hộ khi thỏa mãn 02 điều kiện: (1) có tính định hình, được thể hiện dưới dạng vật chất nhất định; (2) có tính nguyên gốc, tác phẩm đó phải được sáng tác lần đầu tiên và được chính tác giả đó sáng tác.

Hiện nay, việc đăng ký quyền tác giả sẽ dựa trên Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019 và 2022); Nghị định 17/2023/NĐ – CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan; Thông tư 08/2023 quy định các biểu mẫu trong hoạt động đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan.

  • Xác định thể loại tác phẩm đăng ký

Trước khi chuẩn bị hồ sơ đăng ký bản quyền tác giả, chủ sở hữu, tác giả thực hiện phải xác định thể loại tác phẩm dự định đăng ký thuộc trường hợp tác phẩm nào theo Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ.

  • Chuẩn bị, soạn thảo hồ sơ đăng ký bản quyền tác giả

Sau khi xác định được loại hình tác phẩm dự định đăng ký bàn quyền, chủ sở hữu, tác giả tác phẩm tiến hành soạn thảo hồ sơ đăng ký bản quyền theo quy định pháp luật.

Về cơ bản, khi đăng ký bản quyền tác giả, tác giả cần chuẩn bị các hồ sơ, tài liệu (bằng tiếng Việt) như sau:

  • Tờ khai đăng ký quyền tác giả (theo mẫu tương ứng tại Thông tư 08/2023/TT-BVHTTDL ngày 02 tháng 06 năm 2023 Thông tư quy định các mẫu trong hoạt động đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan).
  • Hai bản sao tác phẩm đăng ký bản quyền tác giả. Đối với những tác phẩm có đặc thù riêng như tranh, tượng, tượng đài, phù điêu, tranh hoành tráng gắn với công trình kiến trúc; tác phẩm có kích thước quá lớn, cồng kềnh bản sao tác phẩm đăng ký được thay thế bằng ảnh chụp không gian ba chiều.
  • Trường hợp tác giả, chủ sở hữu ủy quyền cho tổ chức khác thì phải có thêm giấy ủy quyền, còn nếu ủy quyền cho cá nhân khác thì văn bản ủy quyền phải được chứng thực theo quy định của pháp luật.
  • Tài liệu chứng minh quyền nộp đơn;
  • Văn bản đồng ý của các đồng tác giả, nếu tác phẩm có đồng tác giả;
  • Văn bản đồng ý của các đồng chủ sở hữu, nếu quyền tác giả thuộc sở hữu chung;
  • Chứng minh nhân dân công chứng của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm;
  • Bản sao công chứng Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của công ty (nếu chủ sở hữu là công ty).
  • Nộp hồ sơ đăng ký bản quyền tác giả

Có ba con đường để nộp hồ sơ đăng ký bản quyền: (1) nộp trực tiếp tại Cục Bản quyền; (2) nộp qua đường bưu điện; (3) nộp trực tuyến qua Cổng dịch vụ công trực tuyến.

2. Một số khó khăn thực tế khi đăng ký quyền tác giả

Tuy việc đăng ký quyền tác giả đã và đang trở phổ biến nhưng trên thực tế, việc đăng ký này vẫn còn gặp phải nhiều khó khăn:

Thứ nhất, thời gian giải quyết hồ sơ đăng ký chậm hơn so với quy định. Theo quy định của pháp luật, thời gian để Cục Bản quyền xử lý, tra soát tính hợp lệ của hồ sơ là 01 tháng kể từ ngày nhận được hồ sơ. Trường hợp hồ sơ hợp lệ theo quy định, trong thời hạn 15 ngày làm việc, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả.

Tuy nhiên một thực trạng chung các hồ sơ đăng ký quyền tác giả đối với các tác phẩm, đơn giản như tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm viết, tác phẩm nhiếp ảnh … thì thời gian thực hiện trên thực tế thường cũng phải kéo dài đến hơn một tháng, hoặc thậm chí là hơn hai tháng. Điều này có lẽ một phần cũng xuất phát từ việc lượng hồ sơ đăng ký bản quyền tác giả ngày càng tăng qua các năm dẫn đến quá tải.

Thứ hai, tên và nội dung của tác phẩm đăng ký bảo hộ với các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng cần lưu ý loại bỏ từ “biểu ngữ” hay “slogan” ra khỏi tên tác phẩm. Trong khoảng 2-3 năm trở lại ây Cục bản quyền thường không được chấp thuận các tác phẩm đăng ký chứa các cụm từ trên với lý do, việc bảo hộ quyền tác giả không bảo hộ “slogan”.

Thứ ba, hệ thống tra cứu các hồ sơ đã đăng ký bản quyền còn sơ khai. Hiện tại, các tác phẩm đã được cấp giấy chứng nhận quyền tác giả chỉ có thể tra cứu được trên một kênh duy nhất là tại mục tra cứu niên giám trên website của cục bản quyền. So với các kênh tra cứu về sở hữu công nghiệp thì tra cứu này còn quá thô sơ và lượng thông tin được cập nhật vẫn chưa đủ để đáp ứng nhu cầu tra cứu của khách hàng.

Bên cạnh đó, vẫn còn một vài khó khăn còn tồn tại như:

  • Quá trình chuẩn bị hồ sơ, tài liệu và giấy tờ liên quan rất khó để tự tìm hiểu và chuẩn bị. Hồ sơ tiến hành đăng ký có thể không hợp lệ, thiếu, thậm chí là sai gây nên mất thời gian cho quá trình giải quyết sau này;
  • Các trường hợp ở xa không thuận tiện đi lại, nộp phí đăng ký qua hình thức chuyển khoản sau đó nộp hồ sơ qua đường bưu điện đến cơ quan có thẩm quyền. Đây là quá trình gây ra nhiều vấn đề phát sinh nhất mà chủ thể tiến hành cần giải quyết vì sẽ không nhận được sự hỗ trợ trực tiếp từ phía cơ quan chức năng;
  • Nộp hồ sơ xong cần theo dõi tình trạng của hồ sơ đăng ký để kịp thời trả lời bằng văn bản tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi có vấn đề phát sinh.
  • Khó khăn để tiến hành hoàn thiện và bổ sung hồ sơ theo đúng quy định của pháp luật.

Việc đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan có nhiều lợi ích là vậy, thêm vào đó hướng dẫn về thủ tục và hồ sơ đăng ký quyền tác giả quyền liên quan cũng được cục bản quyền đăng tải rất chi tiết trên website của cục bản quyền đã tạo rất nhiều thuận lợi cho người dân trong quá trình xác lập quyền tác giả. Quy định về việc đăng ký quyền tác giả giấy trắng mực đen đơn giản là thế nhưng đến khi đăng ký quyền tác giả trên thực tế mới thấy những bất cập và khó khăn. Vì vậy, để tránh mất nhiều thời gian, tác giả hay chủ sở hữu tác phẩm nên tìm đến các tổ chức dịch vụ, tư vấn có kinh nghiệm để được hỗ trợ và xử lý kịp thời.

Trên đây là bài viết: “Đăng ký quyền tác giả và một số khó khăn thực tế”. Hy vọng bài viết này sẽ giúp ích cho các bạn.

Quy định pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan

Hiện nay, việc chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan giữa các chủ thể là cá nhân, tổ chức diễn ra rất phổ biến. Quyền tác giả, quyền liên quan đến tác giả là đối tượng được bảo hộ theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ. Vì vậy, để sử dụng và bảo hộ các quyền này cần có sự cho phép của chủ thể mang quyền thông qua hoạt động chuyển nhượng, chuyển quyền sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan. Pháp luật hiện hành cũng có những quy định cụ thể về hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan như sau:

1. Khái quát về hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan

Khoản 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019, gọi tắt là Luật Sở hữu trí tuệ) quy định quyền tác giả là “quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”. Theo khoản 3 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ, quyền liên quan đến quyền tác giả (quyền liên quan) là “quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa”.

Theo đó, chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan là người được hưởng các quyền nhân thân và quyền tài sản theo quy định của pháp luật. Chủ sở hữu có thể tự mình sử dụng hoặc cho người khác sử dụng; họ cũng có quyền định đoạt, chuyển giao quyền sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan đó cho người khác. Chủ sở hữu có thể định đoạt một số quyền thuộc quyền sở hữu của mình thông qua việc từ bỏ, để kế thừa hoặc chuyển nhượng các quyền năng đó cho người khác thông qua hợp đồng.

Khoản 1 Điều 45 Luật Sở hữu trí tuệ quy định chung về chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan như sau: “Chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan là việc chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan chuyển giao quyền sở hữu đối với các quyền quy định tại khoản 3 Điều 19, Điều 20, khoản 3 Điều 29, Điều 30 và Điều 31 của Luật này cho tổ chức, cá nhân khác theo hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật có liên quan”.

Như vậy có thể hiểu, hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan là văn bản thể hiện sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng. Theo đó, bên chuyển nhượng là chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan chuyển giao quyền sở hữu một hoặc một số quyền nhân thân, quyền tài sản của mình cho bên nhận chuyển nhượng là cá nhân, tổ chức theo hình thức, phạm vi, thời hạn… được hai bên xác định trong hợp đồng.

2. Đặc điểm pháp lý của hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan

Hợp đồng quyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan là hợp đồng dân sự đặc biệt. Bên cạnh đặc điểm của hợp đồng dân sự như mang tính chất song vụ, ưng thuận; có đền bù hoặc không có đền bù thì hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả còn có các đặc điểm riêng sau:

– Hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan có đối tượng là quyền nhân thân và quyền tài sản. Nếu như đối tượng của hợp đồng dân sự chỉ có thể là tài sản hoặc công việc thì đối tượng của hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan còn có đối tượng là quyền nhân thân. Thông thường quyền nhân thân này là quyền nhân thân gắn với tài sản và theo quy định của pháp luật có thể chuyển giao được. Tuy nhiên quyền nhân thân là một đối tượng rất hạn chế và chỉ có một số quyền nhân thân nhất định được pháp luật quy định mới có thể trở thành đối tượng của hợp đồng này.

– Hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả quyền liên quan là hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu: Do đối tượng của hợp đồng là những quyền năng mang tính chất vô hình nên việc “chuyển giao” ở đây thể hiện sự chuyển giao về mặt pháp lí. Bên được chuyển nhượng sẽ được sở hữu đối với đối tượng của hợp đồng kể từ một trong ba thời điểm sau: (1) thời điểm hợp đồng có hiệu lực; (2) thời điểm các bên có thoả thuận khác; (3) pháp luật có quy định khác. Cũng kể từ thời điểm chuyển giao đó, bên chuyển nhượng sẽ chấm dứt tư cách chủ sở hữu đối với các quyền đã chuyển giao. Do vậy, sau khi chuyển nhượng, bên chuyển nhượng không có quyền sử dụng cũng như định đoạt các quyền năng đó.

3. Nội dung hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan

Theo Điều 46 Luật Sở hữu trí tuệ quy định về hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan như sau:

1. Hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan phải được lập thành văn bản gồm những nội dung chủ yếu sau đây:

a) Tên và địa chỉ đầy đủ của bên chuyển nhượng và bên được chuyển nhượng;

b) Căn cứ chuyển nhượng;

c) Giá, phương thức thanh toán;

d) Quyền và nghĩa vụ của các bên;

đ) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.

2. Việc thực hiện, sửa đổi, chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan được áp dụng theo quy định của Bộ luật dân sự.

Ở đây, hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan cũng mang đặc trưng của một hợp đồng dân sự, bao gồm: tên, địa chỉ của hai bên; căn cứ chuyển nhượng; giá cả, phương thức thanh toán; quyền và nghĩa vụ của các bên và trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng xảy ra. Vì vậy, việc thực hiện, sửa đổi, chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan được áp dụng theo quy định của Bộ luật Dân sự. Cần lưu ý là giá của nghệ thuật nói chung và giá trị của tác phẩm nói riêng không thể định lượng như vật chất được mà tùy thuộc vào yếu tố chủ quan, khách quan, khả năng cảm nhận, đánh giá của các bên… để đưa ra con số hợp lý trong hợp đồng.

Ngoài ra, Luật sở hữu trí tuệ cũng có quy định mới về trường hợp tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng có đồng chủ sở hữu thì “việc chuyển nhượng phải có sự thỏa thuận của tất cả các đồng chủ sở hữu; trong trường hợp có đồng chủ sở hữu nhưng tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng có các phần riêng biệt có thể tách ra sử dụng độc lập thì chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan có quyền chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan đối với phần riêng biệt của mình cho tổ chức, cá nhân khác” (khoản 3 Điều 45). Bên cạnh đó, trường hợp tổ chức, cá nhân đang quản lý tác phẩm khuyết danh thì vẫn được quyền chuyển nhượng quyền đối với tác phẩm khuyết danh cho tổ chức, cá nhân khác và được hưởng thù lao từ việc chuyển nhượng quyền đó. Tuy nhiên, tổ chức, cá nhân nhận chuyển nhượng quyền này chỉ được hưởng quyền của chủ sở hữu đến khi danh tính của tác giả được xác định.

Trên đây là bài viết: “Quy định pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan”. Mong rằng bài viết sẽ giúp ích cho các bạn.

Cuộc biểu diễn phải đáp ứng các điều kiện nào để được bảo hộ?

Một tác phẩm có thể phổ biến đến công chúng theo nhiều cách khách nhau. Tuy nhiên, để tác phẩm nghệ thuật đó được công chúng biến đến rộng rãi thì tác phẩm đó cần được thể hiện trên các chương trình, nền tảng âm nhạc đại chúng. Một buổi biểu diễn, bên cạnh việc sáng tác của tác giả thì người biểu diễn phải trình bày tác phẩm đó trên các chương trình, nền tảng xã hội với sự hỗ trợ của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình và tổ chức phát sóng. Vậy, cuộc biểu diễn phải đáp ứng các điều kiện nào để được pháp luật bảo hộ?

1. Định nghĩa cuộc biểu diễn

Nghệ thuật là một loạt các hành động, mang tính đặc trưng của con người và những sản phẩm do những hoạt động đó tạo ra. Hoạt động nghệ thuật biểu diễn là hoạt động tạo ra những sản phẩm nghệ thuật được định hình dưới dạng văn bản, âm thanh, hình ảnh để truyền đạt trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các phương tiện kỹ thuật tới công chúng. Hoạt động này được thể hiện dưới các hình thức như biểu diễn nghệ thuật; lưu hành bản ghi âm, ghi hình có nội dung biểu diễn nghệ thuật. Khoản 3 Điều 2 Nghị định 144/2020/NĐ-CP quy định về hoạt động biểu diễn có giải thích “loại hình nghệ thuật biểu diễn bao gồm nghệ thuật sân khấu, âm nhạc, múa và các hình thức diễn xướng dân gian từ truyền thống đến hiện đại của Việt Nam và thế giới”.

Theo khoản 3 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2023, gọi tắt là Luật Sở hữu trí tuệ), “Quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi là quyền liên quan) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa”. Như vậy, cuộc biểu diễn được hiểu là hoạt động nghệ thuật sân khấu, âm nhạc, múa và các hình thức diễn xướng dân gian; được truyền đạt trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các phương tiện kỹ thuật nhằm tiếp cận công chúng.

2. Điều kiện để cuộc biểu diễn được bảo hộ theo quy định pháp luật

Tuy nhiên, không phải cuộc biểu diễn nào cũng được Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam nói riêng và pháp luật Việt Nam nói chung bảo hộ. Căn cứ theo khoản 1 Điều 17 Luật Sở hữu trí tuệ, để cuộc biểu diễn được bảo hộ thì phải đáp ứng các điều kiện sau:

1. Cuộc biểu diễn được bảo hộ nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Cuộc biểu diễn do công dân Việt Nam thực hiện tại Việt Nam hoặc nước ngoài;

b) Cuộc biểu diễn do người nước ngoài thực hiện tại Việt Nam;

c) Cuộc biểu diễn được định hình trên bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ theo quy định tại Điều 30 của Luật này;

d) Cuộc biểu diễn chưa được định hình trên bản ghi âm, ghi hình mà đã phát sóng được bảo hộ theo quy định tại Điều 31 của Luật này;

đ) Cuộc biểu diễn được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Theo nguyên tắc hiệu lực lãnh thổ của quyền tắc giả thì nơi thực hiện cuộc biểu diễn cũng là một trong những điều kiện bảo hộ cuộc biểu diễn. Pháp luật các nước thường chỉ bảo hộ cuộc biểu diễn của công dân nước mình, cuộc biểu diễn được thực hiện trên phạm vi lãnh thổ quốc gia của mình và các trường hợp khác tùy thuộc vào các Hiệp định song phương hoặc đa phương về các vấn đề có liên quan mà quốc gia tham gia hoặc ký kết. Ngoài các nguyên tắc được quy định trong các Điều ước quốc tế như nguyên tắc đối xử công dân, nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (Hiệp định TRIPS), Khoản 1 Điều 17 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam quy định với các cuộc biểu diễn mà người biểu diễn là công dân Việt Nam dù được thực hiện tại Việt Nam hoặc nước ngoài đều được pháp luật Việt Nam bảo hộ. Ngoài ra, cuộc biểu diễn do người nước ngoài thực hiện tại Việt Nam cũng được bảo hộ theo pháp luật Việt Nam và một số trường hợp cụ thể khác theo quy định của pháp luật.

Bên cạnh đó, cuộc biểu diễn này phải đảm bảo được thực hiện lần đầu hoặc được định hình lần đầu (điều kiện về hình thức hoặc thực hiện). Quyền liên quan đối với cuộc biểu diễn phát sinh kể từ khi cuộc biểu diễn được  định hình hoặc thực hiện mà không gây phương hại đến quyền tác giả.

Theo điểm c Điều 2 Hiệp ước về cuộc biểu diễn và bản ghi âm của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (gọi tắt là Hiệp ước WPPT) mà Việt Nam là thành viên có định nghĩa định hình “là sự biểu hiện các âm thanh, hoặc sự tái hiện lại biểu hiện này, từ đó các âm thanh có thể được cảm nhận, được sao chép hoặc truyền đạt qua một thiết bị nào đó.” Tại khoản 5 Điều 4 Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Bộ luật Dân sự và Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan thì định hình được hiểu là: “sự biểu hiện bằng chữ viết, các ký tự khác, đường nét, hình khối, bố cục, màu sắc, âm thanh, hình ảnh hoặc sự tái hiện âm thanh, hình ảnh dưới dạng vật chất nhất định để từ đó có thể nhận biết, sao chép hoặc truyền đạt”. Vì vậy có thể hiểu, việc thực hiện cuộc biểu diễn thông qua chính hoạt động sáng tạo của người biểu diễn hoặc có sự kết hợp với một số các yếu tố có liên quan như màu sắc, bố cục, đường nét, hình khối, âm thanh để tạo nên cuộc biểu diễn. Trong hoạt động biểu diễn, tính sáng tạo của người biểu diễn là yếu tố quan trọng để hình thành nên hình tượng của họ, một trong các quyền nhân thân quan trọng mà pháp luật bảo hộ cho người biểu diễn.

Như vậy, bên cạnh căn cứ pháp luật quy định tại khoản 1 Điều 17 Luật Sở hữu trí tuệ, cuộc biểu diễn phải được định hình lần đầu, thể hiện sự sáng tạo của người biểu diễn và không gây tổn hại đến quyền tác giả. Khi đó, cuộc biểu diễn sẽ được bảo hộ bởi quyền liên quan một cách hoàn chỉnh nhất.

Trên đây là bài viết Cuộc biểu diễn phải đáp ứng các điều kiện nào để được bảo hộ?”. Mong bài viết có ích cho các bạn.

Tại sao tin tức thời sự thuần túy đưa tin không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả?

Với sự phát triển không ngừng nghỉ của xã hội với những biến chuyển của thế giới, việc cập nhật tin tức thời sự một cách nhanh chóng và chính xác là một nhiệm vụ rất quan trọng đối với các cơ quan trực thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông. Vì vậy, dưới góc nhìn của luật pháp nói chung và Luật Sở hữu trí tuệ nói riêng, một câu hỏi được đặt ra là: Tại sao những tin tức thời sự thuần túy đưa tin không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả?

1. Quyền tác giả là gì?

Trước khi giải đáp câu hỏi trên, phải hiểu rằng quyền tác giả “là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu” (Khoản 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009 và 2023, sau đây gọi tắt là Luật Sở hữu trí tuệ). Còn tác phẩm “là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào” căn cứ theo khoản 7 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ.

Sự sáng tạo ở đây được hiểu là tác phẩm đó được tác giả tạo ra bằng trí tuệ, cảm xúc của mình và được thể hiện dưới một hình thức nhất định như truyện, thơ, tác phẩm điện ảnh… không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký và được Nhà nước bảo đảm quyền tự do sáng tạo của cá nhân trong khuôn khổ pháp luật. Ngoài ra, tác giả hoàn toàn có quyền định đoạt các quyền của mình có được từ tác phẩm và được bảo vệ khi có hành vi xâm phạm đến quyền tác giả bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

2. Căn cứ để trở thành đối tượng thuộc phạm vi bảo hộ của quyền tác giả

Quyền tác giả được bảo hộ khi tác phẩm có tính sáng tạo (tính nguyên gốc) và hình thức thể hiện tác phẩm (tính định hình). Tính nguyên gốc thể hiện ở chỗ tác phẩm đó phải là kết quả sáng tạo bằng trí tuệ của mình, không sao chép từ tác phẩm của người khác, thể hiện cái riêng của tác giả. Tính định hình được thể hiện bởi phương thức thể hiện tác phẩm đó bằng chữ viết, các ký tự, đường nét, hình khối bố cục…Vì vậy, Luật Sở hữu trí tuệ đã quy định các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả tại Điều 14, bao gồm:

(1) Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác;

(2) Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác;

(3) Tác phẩm báo chí;

(4) Tác phẩm âm nhạc;

(5) Tác phẩm sân khấu;

(6) Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự (sau đây gọi chung là tác phẩm điện ảnh);

(7) Tác phẩm mỹ thuật, mỹ thuật ứng dụng;

(8) Tác phẩm nhiếp ảnh;

(9) Tác phẩm kiến trúc;

(10) Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình khoa học;

(11) Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian;

(12) Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.

3. Tại sao tin tức thời sự thuần túy đưa tin không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả?

Căn cứ theo khoản 1 Điều 19 Nghị định 22/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bố sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan, “Tin tức thời sự thuần túy đưa tin quy định tại khoản 1 Điều 15 của Luật sở hữu trí tuệ là các thông tin báo chí ngắn hàng ngày, chỉ mang tính chất đưa tin không có tính sáng tạo.”

Có thể hiểu đó là những tin tức mang tính chất “thời sự”, cần được chuyển đến công chúng nhanh nhất, chỉ là những bản tin, những số liệu, phản ánh các thông tin sự thật khách quan như: dịch bệnh, tai nạn, sự kiện diễn ra trong và ngoài nước… được thu thập, tổng hợp và phản ánh một cách chân thực những sự vật sự việc khách quan, mà không phải là sự thể hiện sự sáng tạo, hay những nét riêng khác biệt nào đó của cá nhân, hay chủ thể nào đó. Do vậy, tin tức thời sự thuần túy đưa tin không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả, quy định tại khoản 1 Điều 15 Luật Sở hữu trí tuệ.

Ngoài ra, việc đăng tải lại tin tức thời sự sẽ không phải xin phép bằng văn bản nhưng cần có trích nguồn cụ thể, vừa đảm bảo độ chính xác thông tin, vừa thể hiện sự tôn trọng đối với tác giả. Tuy nhiên, nếu việc đăng tải lại thông tin này không chính xác so với thông tin gốc, ảnh hưởng đến uy tín và gây thiệt hại đối với tác giả, tác giả có quyền yêu cầu bồi thường.

Trong quá trình đưa tin, nếu chủ thể là cá nhân, tổ chức có nêu thêm cảm nhận, đánh giá, nhận xét, bình luận thể hiện quan điểm và suy nghĩ của mình, thể hiện sự sáng tạo và cách nhìn khác đối với tin tức thời sự đó và được thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định hoặc bất kỳ phương tiện nào thì có thể được bảo hộ theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ.

Trên đây là bài viết “Tại sao tin tức thời sự thuần túy đưa tin không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả?”. Mong bài viết có ích cho các bạn.

Tác phẩm có nhiều người thừa kế thì những người thừa kế đó có là đồng chủ sở hữu?

Chủ sở hữu quyền tác giả có thể là người thừa kế theo quy định tại Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, vậy trường hợp có nhiều người được thừa kế thì những người thừa kế đó có là đồng sở hữu quyền tác giả hay không? Mời bạn đọc theo dõi bài viết của VCD để biết thêm thông tin chi tiết.

1. Thừa kế quyền tác giả

Quyền tác giả quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo hoặc sở hữu. Quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản, trong đó có một số quyền có thể để lại thừa kế theo quy định của pháp luật Dân sự.

Tài sản của cá nhân có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản, mà có quyền tài sản nằm trong quyền tác giả. Vậy, khi cá nhân sở hữu quyền tác giả chết và để lại tài sản của mình cho người thừa kế thì quyền tác giả đương nhiên sẽ trở thành di sản thừa kế.

Điều 40 Luật SHTT có quy định về chủ sở hữu quyền tác giả là người thừa kế, cụ thể:

Tổ chức, cá nhân được thừa kế quyền tác giả theo quy định của pháp luật về thừa kế là chủ sở hữu các quyền quy định tại Điều 20 và khoản 3 Điều 19 của Luật này.”

Theo đó, người được nhận thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật sẽ trở thành chủ sở hữu của các di sản thừa kế này.

2. Đồng sở hữu quyền tác giả

Theo Điêu 208 Bộ luật Dân sự, việc xác lập quyền sở hữu chung được thực hiện theo thỏa thuận, theo quy định của pháp luật hoặc theo tập quán. Một trong những trường hợp sở hữu chung được xác lập là do thừa kế. Trong trường hợp này, việc phân chia di sản thừa kế thuộc sở hữu chung của những người đồng thừa kế thực hiện theo quy định tại Điều 659 và Điều 660 Bộ luật Dân sự năm 2015, cụ thể như sau:

– Phân chia di sản theo di chúc: Việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc; nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

– Phân chia di sản theo pháp luật: Khi phân chia di sản, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra được hưởng; nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng.

Theo quy định của pháp luật, những quyền tác giả được thừa kế đều là quyền không gắn liền với tác giả và có thể chuyển giao. Trên cơ sở đó, chủ sở hữu các quyền trên có thể là một hoặc nhiều người. Theo đó, nếu nhiều người được nhận thừa kế tác phẩm theo di chúc hoặc theo pháp luật sẽ trở thành chủ sở hữu của các di sản thừa kế này.

Trong trường hợp thừa kế quyền tác giả theo pháp luật thì những người được thừa kế cùng hàng có quyền hưởng ngang nhau trong việc sử dụng, định đoạt tác phẩm. Nguyên tắc sử dụng, định đoạt tác phẩm do được thừa kế, những người thừa kế phải dựa trên cơ sở thỏa thuận. Nếu những người có quyền thừa kế theo pháp luật không thỏa thuận được với nhau thì có quyền yêu cầu tòa án giải quyết.

Khi có nhiều người cùng được thừa kế quyền tác giả theo di chúc thì họ được sử dụng, định đoạt tác phẩm theo phạm vi đã được xác định cụ thể trong nội dung của di chúc. Trong trường hợp người lập di chúc không chỉ định rõ phạm vi sử dụng, định đoạt tác phẩm của từng người thừa kế thì việc sử dụng, định đoạt tác phẩm của từng người thừa kế phải được sự thỏa thuận của tất cả những người thừa kế theo di chúc. Nếu những người thừa kế quyền tác giả theo di chúc không thỏa thuận được về việc hưởng thừa kế quyền tác giả thì họ có quyền yêu cầu tòa án giải quyết.

Ngoài ra, nếu có tổ chức, cá nhân muốn sử dụng tác phẩm thì phải xin phép, trả tiền nhuận bút cho tất cả các đồng chủ sở hữu (trừ trường hợp ngoại lệ).