Sorting by

×
Skip to main content

Tác giả: Biên Tập Viên

Ứng dụng công nghệ vào trong bảo vệ bản quyền âm nhạc

Công nghệ số hóa đối với ngành công nghiệp âm nhạc đã tạo ra những thay đổi đáng kể mà sự tiến triển của công nghệ số hóa đã mang lại cho ngành công nghiệp âm nhạc. Từ sự xuất hiện của các nền tảng phát sóng trực tuyến đến quá trình sản xuất và tiêu thụ âm nhạc, công nghệ số hóa đã thay đổi cách thức mọi người tạo ra, chia sẻ và thưởng thức âm nhạc. Do đó việc ứng dụng công nghệ trong bảo vệ bản quyền âm nhạc là tất yếu. Bài viết của VCD dưới đây sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn.

1. Vì sao phải ứng dụng công nghệ vào trong bảo vệ bản quyền âm nhạc

Từ lâu nạm xâm phạm bản quyền đã trở thành “vết thương” khó lành đối với đội ngũ nghệ sĩ, nhà sáng tác, nhà sản xuất âm nhạc,…. Sự thuận tiện trong môi trường số khiến các tác giả có thể đưa tác phẩm đến với công chúng nhanh chóng, rộng rãi hơn, tuy nhiên đó cugnx là không gian khiến nạn xâm phạm bản quyền ngsfy càng nhức nhối. Thực tế, việc ứng dụng công nghệ số để giải quyết xâm phạm bản quyền đã được đặt ra từ lâu nhưng để biến công nghệ thành chiếc chòa khóa cho sự minh bạch thì vẫn còn nhiều nút thắt.

Ứng dụng công nghệ trong bảo vệ bản quyền âm nhạc là việc sử dụng các giải pháp công nghệ tiên tiến để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với các tác phẩm âm nhạc. Các giải pháp này nhằm ngăn chặn việc sao chép, phân phối trái phép, đảm bảo quyền lợi của các nghệ sĩ và nhà sản xuất âm nhạc, và giúp quản lý, kiểm soát việc sử dụng các tác phẩm âm nhạc một cách hiệu quả.

Mục đích ứng dụng:

  • Ngăn chặn vi phạm bản quyền: Trong kỷ nguyên số, việc sao chép và phân phối âm nhạc trái phép trở nên dẽ dàng hơn, các nền tảng chia sẻ tập tin, trang web phát trực tuyến trái phép ngày càng nhiều dẫn đến nhiều nghệ sĩ mất đi nguồn thu nhập quan trọng từ việc bán album và phát trực tuyến khi các tác phẩm của họ bị sao chép và phân phối trái phép.
  • Đảm bảo công bằng và minh bạch: Hiện nay nhiều nghệ sĩ thường gặp khó khăn trong việc chứng minh quyền sở hữu đối với tác phẩm của họ khi xảy ra tranh chấp bản quyền đồng thời trong quá trình phân chia thù lao bản quyền họ cũng không nhận được đầy đủ do sự tiheesu minh bạch, Vì vậy áp dụng công nghệ sẽ đảm bảo các nghệ sĩ nhận được thù lao chính xác mỗi khi tác phẩm của họ được sử dụng.
  • Tăng cường quản lý và kiểm soát: Các nhà sản xuất và nghệ sĩ cần công cụ để kiểm soát ai có thể sự dụng tác phẩm của họ và dưới những điều kiện nào bởi các vi phạm bản quyền thường khó phát hiện khi âm nhạc được chia sẻ trên nhiều các nền tảng khác nhau.
  • Tăng cường trải nghiệm cho người dùng: Ngoài việc bảo vệ bản quyền cho nghệ sĩ việc áp dụng công nghệ còn giúp cho người dùng dễ dàng trong việc truy cập và tìm kiếm âm nhạc hợp pháp và chất lượng tránh được các rủi bảo mật cho người dùng khi họ sử dụng những trang web lậu.

Do đó, việc áp dụng công nghệ vào bảo vệ bản quyền âm nhạc là cần thiết để đối phó với những thách thức hiện đại và tận dụng các cơ hội mà công nghệ mang lại. Công nghệ không chỉ giúp ngăn chặn vi phạm bản quyền mà còn tạo ra một hệ thống minh bạch, công bằng và hiệu quả, đảm bảo quyền lợi của các nghệ sĩ và nhà sản xuất, và thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp âm nhạc.

Ứng dụng công nghệ vào trong bảo vệ bản quyền âm nhạc

2. Một số ứng dụng phổ biến hiện nay

Thực trạng xâm phạm bản quyền trong âm nhạc vẫn đang xảy ra một cách phổ biến hiện nay, do đó để đối phó với những hành vi xâm phạm này nhiều đơn vị tổ chức đã ứng dụng công nghệ số để theo dõi, khai thác, quản lý việc sử dụng các tác phẩm giải trí trên không gian mạng nhằm tối ưu hóa và đem lại hiệu quả quản lý quyền tác giả trên môi trường internet đồng thời tăng khả năng theo dõi và kiểm soát vi phạm bản quyền trực tuyến.

  1. Ứng dụng Blockchain

Blockchain được biết đến với khả năng đảm bảo tính minh bạch và an toàn thông qua các hệ thống ghi chép phân tán cụ thể hóa. Công nghệ này mở ra những cơ hội mới nhằm mục đích cải thiện cách thức quản lý bản quyền, phân phối, và thậm chí là cách thức tạo ra và chia sẻ giá trị trong thế giới âm nhạc. Blockchain – công nghệ đứng sau sự nổi tiếng của Bitcoin, đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý, kiểm soát quyền sở hữu một cách chính xác mà còn đảm bảo sự phân chia lợi nhuận một cách công bằng và bền vững.

Ngoài ra Blockchain còn giúp các nghệ sĩ giảm bớt sự phụ thuộc vào các bên trung gian nhằm tối ưu hóa chi phí phân phối và tăng cường quyền lực quyền kiểm soát đối với tác phẩm. Nghệ sĩ có thể tận dụng các nền tảng âm nhạc dựa trên blockchain để phát hành tác phẩm của mình một cách trực tiếp đến người hâm mộ, không chỉ giảm chi phí mà còn tăng cường sự gắn kết và hợp tác với cộng đồng của mình. Người hâm mộ thông quan việc mua token hoặc tham gia vào các hệ thống hỗ trợ nghệ sĩ trở thành một phần không thể thiếu trong quá trình phân phối tạo ra mô hình kinh doanh mới, minh bạch và công bằng hơn.

Lợi ích khi sử dụng Blockchain:

  • Không thể bị làm giả và phá hủy các chuỗi Blockchain: Chỉ bị phá hủy khi không còn internet.
  • Bất biến: Nếu giao dịch hoặc dữ liệu đã được ghi bởi người nắm giữ private key (mã khóa bí mật – chỉ người khởi tạo Blockchain mới có) dữ liệu đó không thể sửa chữa.
  • Bảo mật dữ liệu: Các thông tin, dữ liệu về các chuỗi blockchain được phân tán và an toàn tuyệt đối. Chỉ có người giữ private key mới có quyền truy xuất.
  • Minh bạch: Ai cũng có thể theo dõi được đường đi của blockchain từ địa chỉ này tới địa chỉ khác và thống kê toàn bộ lịch sử trên địa chỉ đó.
  • Hợp đồng thông minh: Hợp đồng thông minh (smart contracts) trên blockchain tự động thực hiện các giao dịch và thanh toán tiền bản quyền khi các điều kiện được xác định trước được đáp ứng. Hợp đồng thông minh đảm bảo rằng các nghệ sĩ nhận được thù lao một cách chính xác và minh bạch.

b. Ứng dụng Digital Rights Management (DRM)

DRM là công nghệ giúp quản lý các nội dung số, nhằm hạn chế vi phạm bản quyền dựa vào hình thức mã hóa. Hiểu đơn giản việc quản lý bản quyền nội dung số DRM ra đời với mục đích kiểm soát các hoạt động của người dùng trong quá truy cập và sử dụng mội dung nền tảng số.

Hiện nay rất nhiều người quan tâm nhiều đến bản quyền của những nội dung số mình truy cập. Họ chỉ cần có thể truy cập vào nội dung mình muốn còn việc nó có bản quyền hay không thường rất ít người chú ý. Nhưng khi DRM được ứng dụng ở các file nội dung số thì người tạo ra nội dung này có thể kiểm soát được quyền của người dùng. Khi đó người dùng sẽ biết họ có thể liên kết đến những gì trong nội dung số và những gì mình không thể truy cập.

Lợi ích khi sử dụng DRM:

  • Bảo vệ quyền sở hữu nội dung số: Sử dụng hệ thống DRM giúp ngăn chặn việc quay màn hình video và phân phối trái phép nội dung số, bảo vệ bản quyền cho chủ sở hữu nội dung. Nhờ vậy, họ có thể kiểm soát việc sử dụng và khai thác nội dung của mình hiệu quả hơn. Công nghệ quản lý quyền kỹ thuật số này đảm bảo giá trị của nội dung được duy trì, xứng đáng với công sức sáng tạo của tác giả bỏ ra.
  • Quản lý quyền truy cập: DRM giúp chủ sở hữu nội dung thiết lập các điều kiện cụ thể về cách thức và thời gian người dùng có thể truy cập và sử dụng nội dung đó. Công nghệ bảo mật này mang lại khả năng kiểm soát chặt chẽ đối với việc phân phối và sử dụng nội dung, từ đó ngăn ngừa việc sao chép trái phép hoặc lạm dụng “chất xám”.
  • Bảo vệ nguồn thu nhập: Các doanh nghiệp hay các nhà sáng tạo nội dung luôn phải đối mặt với nguy cơ thất thoát doanh thu bởi các hành vi đánh cắp sản phẩm số, sau đó tung lên mạng hoặc đi rao bán với giá rẻ như cho. Việc áp dụng công nghệ quản lý kỹ thuật số DRM không chỉ đơn thuần bảo vệ nội dung, chất xám mà còn góp phần duy trì thu nhập của chủ sở hữu.
  • Nâng cao trải nghiệm người dùng: Người dùng có thể truy cập nội dung file và các tài liệu bảo vệ bằng DRM mà không cần ứng dụng đặc biệt nào. DRM cho phép đọc qua ứng dụng bên thứ ba, giúp tiếp cận nội dung số dễ dàng mà không cần xác nhận phức tạp. Công nghệ này mã hóa tiêu chuẩn, cho phép truy cập an toàn và kiểm soát thông tin người dùng.

VCD thấy rằng việc ứng dụng công nghệ trong bảo vệ bản quyền âm nhạc là một bước tiến quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của các nghệ sĩ và nhà sản xuất âm nhạc. Các giải pháp công nghệ như blockchain, watermarking, DRM, AI, audio fingerprinting, và các hệ thống đám mây giúp ngăn chặn vi phạm đăng ký bản quyền, quản lý quyền sở hữu, và đảm bảo tính minh bạch trong việc sử dụng và phân phối âm nhạc.

Bản quyền âm nhạc trong tổ chức sự kiện

Âm nhạc không chỉ là nguồn giải trí đơn thuần mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra trải nghiệm độc đáo và giao tiếp mạnh mẽ trong sự kiện. Nó không chỉ là những nốt nhạc hòa quyện, mà còn là phương tiện tinh tế để kích thích cảm xúc và tạo nên không khí đặc biệt. Do đó, âm nhạc được xem là một trong những yếu tố quan trọng nhất của một sự kiện, bởi đây là phương tiện giúp sự kiện truyền tải thông điệp đến người tham dự nâng cao cảm xúc và cải thiện trải nghiệm của người tham gia. Tuy nhiên, pháp luật quy định như thế nào về bản quyền âm nhạc trong tổ chức sự kiện?. Hãy theo dõi bài viết dưới đây của VCD.

1. Bản quyền âm nhạc trong tổ chức sự kiện là gì

Theo điểm d khoản 1 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ thì tác phẩm âm nhạc là một trong những loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả. Như vậy, bản quyền bài hát là quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc.

Theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP, tác phẩm âm nhạc được hiểu là tác phẩm được thể hiện dưới dạng nhạc nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác hoặc được định hình trên bản ghi âm, ghi hình có hoặc không có lời, không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn.

Như vậy, bản quyền âm nhạc được hiểu là quyền của tác giả đối với tác phẩm được thể hiện dưới dạng nhạc nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác hoặc được định hình trên bản ghi âm, ghi hình có hoặc không có lời, không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn kể từ thời điểm mà tác giả tạo ra tác phẩm.

Do đó, Bản quyền âm nhạc trong tổ chức sự kiện là việc sử dụng các tác phẩm âm nhạc trong các sự kiện công cộng hoặc thương mại, bao gồm các buổi biểu diễn trực tiếp, hội nghị, triển lãm, lễ hội, tiệc cưới, nhà hàng, quán bar, và các hoạt động tương tự. Điều này đòi hỏi tổ chức sự kiện phải xin phép sử dụng và trả tiền bản quyền cho các tác giả, nhạc sĩ, và nhà sản xuất âm nhạc thông qua các tổ chức quản lý quyền tác giả.

Bản quyền âm nhạc trong tổ chức sự kiện

2. Quy định của pháp luật về bản quyền âm nhạc trong tổ chức sự kiện

Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 có quy định những trường hợp cho phép các sự kiện được sử dụng âm nhạc mà không cần xin phép người sở hữu.

Trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả phí bản quyền, nhưng phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm:

  • Biểu diễn tác phẩm sân khấu, âm nhạc, múa và các loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hóa, hoạt động tuyên truyền cổ động không nhằm mục đích thương mại;
  • Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn nhằm mục đích đưa tin thời sự hoặc giảng dạy.

Trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả phí bản quyền, thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm:

  • Đối với các sự kiện, chương trình ghi hình, ghi âm có ca sĩ, nghệ sĩ biểu diễn:

Nếu ban tổ chức sử dụng phát sóng những tác phẩm âm nhạc đã được chủ sở hữu quyền tác giả công bố cho phép ghi hình nhằm mục đích thương mại thì không phải xin phép, nhưng phải trả phí tác quyền kể từ khi sử dụng.

Trong đó, nếu chương trình không có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào, mức phí bản quyền và phương thức thanh toán theo quy định của Chính phủ.

Nếu chương trình có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào, mức phí bản quyền và phương thức thanh toán do các bên thỏa thuận; trường hợp không đạt được thỏa thuận thì thực hiện theo quy định của Chính phủ.

  • Đối với những sự kiện, chương trình sử dụng âm nhạc là các bản ghi âm, ghi hình (đám cưới, lễ khánh thành, hội nghị, hội thảo,…):

 Theo Điều 33 của Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi năm 2022, các tổ chức hoặc cá nhân sử dụng các bản ghi âm, ghi hình đã được công bố nhằm mục đích thương mại trong các sự kiện như đám cưới, lễ khánh thành, hội nghị, hội thảo và các chương trình tương tự không cần xin phép, nhưng phải trả phí tác quyền cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, và tổ chức phát sóng từ khi sử dụng.

Tuy nhiên, mức phí tác quyền phụ thuộc vào các điều kiện cụ thể của chương trình. Nếu chương trình không có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào, thì các mức phí sẽ được quy định theo quy định của Chính phủ.

Trong trường hợp chương trình có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào, các mức phí sẽ được thỏa thuận giữa các bên liên quan. Nếu không có thỏa thuận được, thì áp dụng quy định của Chính phủ.

Đối với chương trình có sự tham gia biểu diễn của các nghệ sĩ như vũ công, vũ đoàn và các người biểu diễn khác, thù lao của họ sẽ phụ thuộc vào thoả thuận với nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình khi thực hiện chương trình.

Tỉ lệ phân chia phí tác quyền và quyền lợi vật chất khác do các chủ thể quyền sở hữu hoặc tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan thỏa thuận. Các tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan có thể được uỷ thác để thu và phân phối phí tác quyền và quyền lợi vật chất khác. Tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan được uỷ thác sẽ nhận một khoản phí nhất định theo thoả thuận giữa các bên.

Tuy nhiên, khi sử dụng tác phẩm âm nhạc, VCD khuyên các tổ chức và cá nhân phải tuân thủ các quy định về việc khai thác bình thường của tác phẩm và không gây tổn hại đến quyền của tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả. Điều này có nghĩa là việc sử dụng tác phẩm âm nhạc không được làm ảnh hưởng đến quyền khai thác thông thường của tác phẩm và không gây thiệt hại đến quyền của tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả.

Quyền quản lý tác quyền trong lĩnh vực âm nhạc

Trong bối cảnh nhạc số đang chiếm lĩnh thị trường cùng với công nghệ AI đang phát triển như vũ bảo, ngành công nghiệp âm nhạc toàn cầu cũng đang đối diện với nhiều cơ hội và thách thức. Đặc biệt là vấn đề quản lý tác quyền âm nhạc ở Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong những năm gần đây. Tuy nhiên quyền quản lý tác quyền trong lĩnh vực âm nhạc được pháp luật quy định như thế nào?. Hãy theo dõi bài viết của VCD dưới đây.

1. Khái niệm quyền quản lý tác quyền trong lĩnh vực âm nhạc là gì

Tác quyền hay còn được gọi là quyền tác giả theo quy định tại Khoản 2 Điều 1 Luật sở hở hữu trí tuệ thì quyền tác giả là quyền của tổ chức cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra.

Âm nhạc là một trong những nguồn giải trí không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Với ca từ và giai điệu phản ánh trí tuệ, tư tưởng của con người nhàm truyền đạt mạnh mẽ đến cảm xúc và suy nghĩa của con người do đó âm nhạc mang đến cho mọi người hạnh phúc và yêu đời hơn.

Do đó, quyền quản lý tác quyền trong lĩnh vực âm nhạc là quyền và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong việc bảo vệ, khai thác và thực thi các quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc, bao gồm việc quản lý các quyền tài sản và quyền nhân thân để đảm bảo rằng các tác giả, nhạc sĩ, nhà sản xuất âm nhạc được bảo vệ quyền lợi và nhận được thù lao xứng đáng cho công sức sáng tạo của mình.

Quyền quản lý tác quyền trong lĩnh vực âm nhạc

2. Quyền quản lý tác quyền trong lĩnh vực âm nhạc

Tại Việt Nam, quyền quản lý tác quyền âm nhạc được thực hiện bởi các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức quản lý tập thể quyền (đại diện) quyền tác giả. Cụ thể như sau:

  • Đối với cơ quan quản lý nhà nước

Căn cứ Điều 35 Nghị định 22/2018/NĐ-CP quy định thẩm quyền của cơ quan cấp, cấp lại, đổi, hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan như sau:

  • Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Cục Bản quyền tác giả) có thẩm quyền cấp, cấp lại, đổi, hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan theo quy định tại khoản 1 và 2 Điều 51 của Luật sở hữu trí tuệ,
  • Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan được cấp theo quy định tại Điều 49 và Điều 50 của Luật sở hữu trí tuệ.
  • Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan được cấp lại trong trường hợp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan bị mất hoặc rách nát.
  • Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan được cấp đổi trong trường hợp thay đổi chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan hoặc thay đổi thông tin về tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan, tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng.
  • Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan bị hủy bỏ hiệu lực trong các trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 55 của Luật sở hữu trí tuệ.
  • Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định các mẫu Tờ khai đăng ký quyền tác giả, Tờ khai đăng ký quyền liên quan, Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 50 và khoản 4 Điều 51 của Luật sở hữu trí tuệ.

Theo đó, cơ quan có thẩm quyền quyết định là Cục Bản quyền tác giả (Bộ VHTTDL). Thông tin và địa chỉ Cục Bản quyền tác giả và các Văn phòng đại diện:

  • Trụ sở chính của Cục Bản quyền tác giả: Địa chỉ:33 Ngõ 294/2 Kim Mã, Quận Ba Đình, Hà Nội.
  • Văn phòng đại diện của Cục Bản quyền tác giả tại TP. Hồ Chí Minh: Địa chỉ:170 Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh.
  • Văn phòng đại diện của Cục Bản quyền tác giả tại Đà Nẵng: Địa chỉ: 58 Phan Chu Trinh, Quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng.
  • Đối với tổ chức tập thể quyền(đại diện) quyền tác giả

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam có rất nhiều cơ chế để đảm bảo quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc và quyền liên quan đến tác phẩm âm nhạc như: pháp luật sở hữu trí tuệ, pháp luật hành chính, hình sự. Bên cạnh cơ chế tự bảo vệ của các chủ thể trong các quan hệ pháp luật sở hữu trí tuệ thì còn có những tổ chức phi chính phủ được thành lập với chức năng nhiệm vụ bảo vệ các quyền, quyền liên quan đối với các chủ thể trong quan hệ pháp luật.

Quản lý tập thể quyền tác giả là một cơ chế quan trọng để bảo vệ và khai thác quyền tác giả một cách hiệu quả, đặc biệt trong lĩnh vực âm nhạc là khả năng cấp phép cho người dùng để sử dụng toàn bộ kho tác phẩm do tổ chức quản lý tập thể đó quản lý hoạt động cấp phép góp phần thúc đẩy mối quan hệ giữa các tổ chức quản lý tập thể và các đơn vị sử dụng khác.

Có hai phương thức quản lý tập thể quyền phổ biến ở Việt Nam bao gồm:

  • Phương thức thứ nhất: các tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm đã thỏa thuận trả phí trực tiếp với các tác giả khi sử dụng tác phẩm của họ.
  • Phương thức thứ hai: các tác giả có thể giao kết hợp đồng ủy quyền quản lý và khai thác quyền với một tổ chức quản lý tập thể để được hưởng thù lao cho các tác phẩm của mình.

Độc quyền sử dụng và cấp phép sử dụng là quyền quan trọng nhất của tác giả đối với tác phẩm của mình. Tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả không chỉ đại diện mang tính chất tập thể cho cộng đồng tác giả mà còn là tiếng nói chung bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả. Tuy nhiên, thực tế tại Việt Nam, việc vi phạm bản quyền và không trả tiền tác quyền cho tác giả xảy ra thường xuyên, điều này không chỉ xâm phạm quyền lợi của tác giả mà còn cho thấy vai trò thực tế của các tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả vẫn chưa được tôn trọng và đánh giá cao.

Ở Việt Nam, VCD cũng là một tổ chức quản lý tập thể quyền tác tác giả, quyền liên quan. VCD được thành lập dựa trên những yêu cầu thực tiễn cho thấy việc hình thành một tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả là hệ quả tất yếu. Ngoài việc cung cấp dịch vụ đăng ký và khai thác quyền tác giả, quyền liên quan VCD còn đáp ứng nhu cầu giải quyết tranh chấp pháp lý về bản quyền cho các nghệ sĩ nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng của họ.

Bản quyển âm nhạc giữa nhà sáng tạo và trí tuệ nhân tạo (AI)

Xung đột bản quyền giữa các nhà sáng tạo và trí tuệ nhân tạo (AI) hiện vẫn là vấn đề nóng trong ngành công nghiệp âm nhạc. Hiện nay, việc sử dụng dịch vụ AI tạo sinh đang lan rộng và được ứng dụng vào lĩnh vực sáng tạo nội dung ngày càng cao. Điều này khiến nhiều người e ngại về việc xung đột bản quyền dựa trên tiền đề sáng tạo âm nhạc của con người. Bài viết “Bản quyển âm nhạc giữa nhà sáng tạo và trí tuệ nhân tạo (AI)” của VCD dưới đây sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về vấn đề này.

1.Bản quyển âm nhạc giữa nhà sáng tạo và trí tuệ nhân tạo (AI)

Theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP, tác phẩm âm nhạc được hiểu là tác phẩm được thể hiện dưới dạng nhạc nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác hoặc được định hình trên bản ghi âm, ghi hình có hoặc không có lời, không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn. Do đó, bản quyền âm nhạc được hiểu là quyền của tác giả đối với tác phẩm được thể hiện dưới dạng nhạc nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác hoặc được định hình trên bản ghi âm, ghi hình có hoặc không có lời, không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn kể từ thời điểm mà tác giả tạo ra tác phẩm.

Nhà sáng tạo âm nhạc(con người) là một cá nhân hoặc nhóm người tham gia vào quá trình sáng tác, sản xuất, và biểu diễn các tác phẩm âm nhạc. Nhà sáng tạo theo truyền thống thì quyền sở hữu bản quyền âm nhạc thuộc về con người là những nhạc sĩ, nhà sản xuất hoặc tổ chức đã sáng tạo ra tác phẩm âm nhạc.

AI là sự mô phỏng các quá trình thông minh của con người bằng máy móc, đặc biệt là hệ thống máy tính. Các ứng dụng cụ thể của AI bao gồm hệ thống chuyên gia, xử lý ngôn ngữ tự nhiên, nhận dạng giọng nói và thị giác máy. Nói một cách đơn giản, AI là một sản phẩm do con người tạo ra, nhằm mục đích hỗ trợ và giải đáp những thắc mắc của con người.

Tranh chấp bản quyền âm nhạc giữa nhà sáng tạo và trí tuệ nhân tạo (AI) là sự xung đột pháp lý và đạo đức liên quan đến quyền sở hữu, quyền sử dụng, và quyền lợi tài chính đối với các tác phẩm âm nhạc được tạo ra bởi công nghệ AI. Các tranh chấp này phát sinh từ việc xác định ai là chủ sở hữu bản quyền hợp pháp của những tác phẩm này và ai được hưởng các quyền lợi liên quan khi AI tham gia vào quá trình sáng tạo âm nhạc.

Bản quyển âm nhạc giữa nhà sáng tạo và trí tuệ nhân tạo (AI)

2. Tranh chấp bản quyền giữa nhà sáng tạo và trí tuệ nhân tạo (AI) hiện nay

Mới nhất vào ngày 24/6/2024, Sony Music Entertainment, Warner Records, Capitol Records và những hãng thu âm khác đã đệ đơn kiện vi phạm bản quyền lên tòa án liên bang ở Boston và New York, cho rằng “Suno và Udio đã sao chép tác phẩm để đời của các nghệ sĩ và khai thác nó để kiếm lợi nhuận mà không có sự đồng ý hoặc trả tác quyền” cáo buộc rằng các startup AI âm nhạc này đang khai thác trái phép các tác phẩm đã ghi âm của nhiều nghệ sĩ, từ Chuck Berry đến Mariah Carey.

Vụ kiện cáo buộc phần mềm “ăn cắp” bài hát để tạo ra các giai điệu tương tự, yêu cầu bồi thường 150.000 đô la cho mỗi tác phẩm. Nếu bị kết tội, số tiền bồi thường mà Suno và Udio phải gánh chịu có thể lên tới con số khổng lồ. Động thái cứng rắn này cho thấy rõ quyết tâm của ngành công nghiệp âm nhạc trong việc thiết lập một khuôn khổ pháp lý rõ ràng cho AI, đồng thời răn đe những công ty khác có ý định huấn luyện mô hình AI mà chưa được sự đồng ý.

Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) là đơn vị khởi xướng các vụ kiện này, với mục tiêu khẳng định “không có ngoại lệ nào cho công nghệ AI trước luật bản quyền và các công ty AI không thể đứng ngoài vòng pháp luật”.

Suno ra mắt sản phẩm đầu tiên vào năm 2023 và cho biết đã có hơn 10 triệu người sử dụng công cụ của họ để sáng tạo nhạc. Công ty này có quan hệ đối tác với Microsoft, hiện thu phí hằng tháng cho dịch vụ của mình và gần đây đã công bố họ huy động được 125 triệu USD từ các nhà đầu tư. Trong khi đó, Udio có trụ sở tại New York, được hỗ trợ bởi các nhà đầu tư mạo hiểm nổi tiếng như Andreessen Horowitz, ra mắt công chúng vào tháng 4.2024 và nhanh chóng nổi tiếng vì là công cụ được sử dụng để tạo ra BBL Drizzy – một bài hát “chế” liên quan đến mâu thuẫn giữa hai rapper nổi tiếng Kendrick Lamar và Drake.

RIAA khẳng định, các bản nhạc do phần mềm của hai công ty này tạo ra giống với tác phẩm gốc đến mức khó tin, chứng tỏ chúng đã được huấn luyện bằng chính những bản nhạc có bản quyền. Theo The Wall Street Journal, các công ty AI đã tạo ra sản phẩm giống hệt My Girl của The Temptations, American Idiot của Green Day, All I Want for Christmas Is You của Mariah Carey… cùng nhiều ca khúc nổi tiếng khác. Thậm chí, phần mềm có thể tạo ra giọng hát “giả mạo” không thể phân biệt với giọng thật của các nghệ sĩ như Lin-Manuel Miranda, Bruce Springsteen, Michael Jackson và ABBA…

Dù không phản đối việc AI học hỏi từ các tác phẩm có bản quyền, nhưng RIAA cho rằng, việc sử dụng dữ liệu không có giấy phép và sự đồng ý của chủ sở hữu bản quyền là hành vi vi phạm pháp luật, bởi các hãng thu âm (và chính các nghệ sĩ) không hề nhận được bất kỳ khoản lợi nhuận nào. AI không thể biện minh cho việc không tuân thủ “luật chơi”, và hành vi đánh cắp quy mô lớn các bản ghi âm đã và đang đe dọa “toàn bộ hệ sinh thái âm nhạc”.

Trên thực tế, ngành công nghiệp ghi âm đang nỗ lực xây dựng thỏa thuận hợp tác với các công ty AI, cho phép họ sử dụng dữ liệu âm nhạc một cách hợp pháp và đảm bảo lợi ích cho cả hai bên. Điển hình như thỏa thuận giữa Universal và SoundLabs, cho phép SoundLabs tạo ra mô hình giọng hát nhưng vẫn đảm bảo quyền sở hữu và kiểm soát sản phẩm cuối cùng. Universal cũng hợp tác với YouTube trong thỏa thuận cấp phép và trả phí bản quyền cho nội dung do AI tạo ra.

Qua đây, VCD thấy rằng sự phát triển nhanh chóng của trí tuệ nhân tạo (AI) trong lĩnh vực âm nhạc và nghệ thuật đặt ra nhiều thách thức mới về bản quyền. Hiện tại, các luật bản quyền hiện hành chưa đủ linh hoạt và không thể áp dụng một cách trực tiếp cho các tác phẩm âm nhạc được tạo ra hoặc phát triển bởi AI. Để đảm bảo quyền lợi cho các nghệ sĩ và nhà sản xuất âm nhạc, cũng như khuyến khích sự sáng tạo và phát triển của AI trong lĩnh vực này, các tổ chức và nhà lập pháp đang phải xem xét và đưa ra các quy định mới.

Bản quyền âm nhạc trong chương trình quảng cáo

Vấn đề bản quyền hiện đang đối mặt với nhiều thách thức trong lĩnh vực truyền thông và quảng cáo trên toàn thế giới, bao gồm cả Việt Nam.Tại Việt Nam, có nhiều trường hợp vi phạm bản quyền trong quảng cáo đã được ghi nhận, chẳng hạn như sử dụng một bài hát nổi tiếng trong video quảng cáo mà không có sự cho phép của tác giả hay sử dụng hình ảnh hoặc logo của một thương hiệu khác mà không có sự đồng ý, dẫn đến vi phạm quyền nhãn hiệu. Do đó việc hiểu rõ quy định của pháp luật Sở hữu Trí tuệ về bản quyền âm nhạc trong chương trình quảng cáo là cần thiết. Bài viết của VCD dưới đây sẽ giúp bạn hiểu rõ vấn đề này.

1. Khái niệm bản quyền âm nhạc trong chương trình quảng cáo

Bản quyền âm nhạc theo quy định của Luật sở hữu Trí tuệ là quyền của tác giả đối với tác phẩm được thể hiện dưới dạng nhạc nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác hoặc được định hình trên bản ghi âm, ghi hình có hoặc không có lời, không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn kể từ thời điểm mà tác giả tạo ra tác phẩm.

Quảng cáo là hình thức truyền thông để giới thiệu, quảng bá sản phẩm, dịch vụ, hoặc thương hiệu đến khách hàng mục tiêu. Âm nhạc thường được sử dụng trong quảng cáo để tạo ấn tượng và tăng cường hiệu quả truyền tải thông điệp.

Như vậy, bản quyền âm nhạc trong chương trình quảng cáo là việc sử dụng hợp pháp các tác phẩm âm nhạc (như bài hát, bản nhạc) trong các nội dung quảng cáo, đồng thời tuân thủ các quy định về quyền tác giả. Việc này đòi hỏi các nhà sản xuất quảng cáo phải xin phép sử dụng và trả tiền bản quyền cho các tác giả, nhạc sĩ, và nhà sản xuất âm nhạc thông qua các tổ chức quản lý quyền tác giả.

Bản quyền âm nhạc trong chương trình quảng cáo

2. Quy định của pháp luật về bản quyền âm nhạc trong chương trình quảng cáo

Theo quy định tại Điều 26. Giới hạn quyền tác giả Luật Sở hữu Trí tuệ quy định như sau:

1. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền, phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm bao gồm:

a) Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố, tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép định hình trên bản ghi âm, ghi hình công bố nhằm mục đích thương mại để phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng. Mức tiền bản quyền và phương thức thanh toán do các bên thỏa thuận; trường hợp không đạt được thỏa thuận thì thực hiện theo quy định của Chính phủ.

Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố, tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép định hình trên bản ghi âm, ghi hình công bố nhằm mục đích thương mại để phát sóng không có tài trợ, quảng cáo hoặc không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng theo quy định của Chính phủ;

b) Trường hợp tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép định hình trên bản ghi âm, ghi hình công bố nhằm mục đích thương mại thì tổ chức, cá nhân sử dụng bản ghi âm, ghi hình này trong hoạt động kinh doanh, thương mại không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền cho chủ sở hữu quyền tác giả của tác phẩm đó theo thỏa thuận kể từ khi sử dụng; trường hợp không đạt được thỏa thuận thì thực hiện theo quy định của Chính phủ. Chính phủ quy định chi tiết các hoạt động kinh doanh, thương mại quy định tại điểm này.

Khi các tổ chức phát sóng mà phát sóng các chương trình quảng cáo, thì sẽ không cần phải xin phép, nhưng cần phải trả tiền nhuận bút hoặc trả thù lao, việc tiến hành sẽ như sau:

Trường hợp 1: Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng. Mức nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác và phương thức thanh toán do các bên thoả thuận; trường hợp không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định của Chính phủ hoặc khởi kiện tại Toà án theo quy định của pháp luật;

Trường hợp 2: Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng không có tài trợ, quảng cáo hoặc không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng theo quy định của Chính phủ.

Tuy nhiên cần lưu ý rằng sử dụng các lời bài hát không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.

Có một số trường hợp trong quảng cáo được miễn phí bản quyền, nếu như tác phẩm được sử dụng trong quảng cáo đã hết thời hạn bảo hộ quyền tài sản (thông thường là 50 năm sau khi tác giả qua đời), thì tổ chức, cá nhân có thể sử dụng tác phẩm mà không cần xin phép và trả tiền bản quyền, tuy nhiên vẫn cần nêu tên tác giả và nguồn gốc tác phẩm được sử dụng trong quảng cáo.

Nếu một quảng cáo sử dụng hình ảnh, âm thanh, video được cung cấp bởi một bên thứ ba, doanh nghiệp cần yêu cầu bên thứ ba đó cung cấp các văn bản chứng minh quyền này, ví dụ như hợp đồng ủy quyền quản lý, khai thác tác phẩm hoặc hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, hợp đồng sử dụng tác phẩm… trong đó ghi nhận bên thứ ba có quyền cho phép chủ thể khác sử dụng tác phẩm.

Một số trường hợp quảng cáo sử dụng một tác phẩm được bảo vệ bản quyền mà không được sự cho phép của tác giả hoặc chủ sở hữu bản quyền, nhưng lại không có lợi nhuận kinh doanh từ việc đó. Việc này không thuộc các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả quy định tại Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ. Do đó, trường hợp này vẫn bị coi là xâm phạm quyền tác giả.

Ngoài ra, trường hợp một doanh nghiệp sử dụng các tác phẩm sáng tạo như một phần của chiến dịch quảng cáo, doanh nghiệp phải xin phép và trả tiền bản quyền cho tác giả, nếu không sẽ bị coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả, trừ trường hợp tác phẩm đã hết thời hạn bảo hộ quyền tài sản.

Do đó, VCD thấy rằng việc tuân thủ các quy định về bản quyền âm nhạc trong quảng cáo không chỉ bảo vệ quyền lợi của các tác giả mà còn giúp bạn tránh các rủi ro pháp lý. Điều này đảm bảo rằng âm nhạc được sử dụng trong quảng cáo mang lại hiệu quả tốt nhất và tôn trọng các quyền sở hữu trí tuệ.

Nhà sản xuất có quyền gì đối với bản ghi âm ghi hình

Quyền liên quan là một hình thức khác của pháp luật sở hữu trí tuệ nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu. Đối tượng bảo hộ của quyền liên quan cũng thuộc hầu hết các lĩnh vực. Bản ghi âm, ghi hình là một trong những đối tượng thuộc phạm vi bảo hộ của quyền liên quan. Tuy nhiên, không phải tất cả các bản ghi âm, ghi hình được tạo ra đều được pháp luật Việt Nam bảo hộ. Vậy pháp luật quy định như thế nào về quyền của nhà sản xuất đối với bản ghi âm ghi hình?. Hãy theo dõi bài viết “Nhà sản xuất có quyền gì đối với bản ghi âm ghi hình” dưới đây của VCD.

1. Quyền của nhà sản xuất đối với bản ghi âm ghi hình là gì

Bản ghi âm, ghi hình: Theo Nghị định 17/2023/NĐ-CP có đưa ra cách hiểu vê bản ghi âm, ghi hình như sau: Bản ghi âm, ghi hình là bản định hình các âm thanh, hình ảnh của cuộc biểu diễn hoặc các âm thanh, hình ảnh khác hoặc việc định hình sự tái hiện lại các âm thanh, hình ảnh không phải dưới hình thức định hình gắn với tác phẩm điện ảnh hoặc tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự. Bản ghi âm, ghi hình có thể là bản ghi nhằm mục đích phổ biến tin tức trên dịch vụ phát thanh, truyền hình, không gian mạng; bản ghi chương trình biểu diễn nghệ thuật; bản ghi lại hoạt động của một hoặc nhiều người, mô tả các sự kiện, tình huống hoặc chương trình thực tế.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 16 Luật sở hữu trí tuệ 2005 thì nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình là tổ chức, cá nhân định hình lần đầu âm thanh, hình ảnh của cuộc biểu diễn hoặc các âm thanh, hình ảnh khác.

Như vậy, quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được hiểu là các quyền mà nhà sản xuất có được đối với các sản phẩm mà họ đã tạo ra, bao gồm các bản ghi âm (như album nhạc, bài hát) và bản ghi hình (như video ca nhạc, phim ảnh). Các quyền này được pháp luật công nhận và bảo vệ, nhằm giúp nhà sản xuất kiểm soát việc sử dụng và phân phối các sản phẩm của mình. Quyền này thường bao gồm quyền sao chép, phân phối, trình diễn công cộng, phát sóng, và tạo ra các tác phẩm phái sinh từ bản ghi âm, ghi hình đó.

Nhà sản xuất có quyền gì đối với bản ghi âm ghi hình

2. Quyền của nhà sản xuất đối với bản ghi âm ghi hình

Nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình có độc quyền thực hiện hoặc cho phép tổ chức, cá nhân khác thực hiện các quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật Sở hữu trí tuệ  sau đây:

a) Sao chép toàn bộ hoặc một phần bản ghi âm, ghi hình của mình bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, trừ trường hợp quy định tại điểm a khoản 3 Điều này;

b) Phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng thông qua bán hoặc hình thức chuyển giao quyền sở hữu khác đối với bản gốc, bản sao bản ghi âm, ghi hình của mình dưới dạng hữu hình, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 Điều này;

c) Cho thuê thương mại tới công chúng bản gốc, bản sao bản ghi âm, ghi hình của mình, kể cả sau khi được phân phối bởi nhà sản xuất hoặc với sự cho phép của nhà sản xuất;

d) Phát sóng, truyền đạt đến công chúng bản ghi âm, ghi hình của mình, bao gồm cả cung cấp tới công chúng bản ghi âm, ghi hình theo cách mà công chúng có thể tiếp cận tại địa điểm và thời gian do họ lựa chọn.

  • Lưu ý: Tại quy định khoản 2 Điều 30 Luật Sở hữu trí tuệ  tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền theo quy định nêu trên tại Mục này phải:

+ Được sự cho phép của chủ sở hữu quyền đối với bản ghi âm, ghi hình;

+ Tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền nêu trên phải được sự cho phép của chủ sở hữu quyền đối với bản ghi âm, ghi hình và trả tiền bản quyền, các quyền lợi vật chất khác (nếu có) cho chủ sở hữu quyền đối với bản ghi âm, ghi hình theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận trong trường hợp pháp luật không quy định, trừ các trường hợp sau đây:

  • Sao chép bản ghi âm, ghi hình chỉ để thực hiện các quyền khác theo quy định của Luật này; sao chép tạm thời theo một quy trình công nghệ, trong quá trình hoạt động của các thiết bị để truyền phát trong một mạng lưới giữa các bên thứ ba thông qua trung gian hoặc sử dụng hợp pháp bản ghi âm, ghi hình, không có mục đích kinh tế độc lập và bản sao bị tự động xóa bỏ, không có khả năng phục hồi lại;
  • Phân phối lần tiếp theo, nhập khẩu để phân phối đối với bản gốc, bản sao bản ghi âm, ghi hình đã được chủ sở hữu quyền thực hiện hoặc cho phép thực hiện việc phân phối.
  • Thuộc một trong các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả, trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả dành cho người khuyết tật và giới hạn quyền tác giả quy định tại Luật sở hữu trí tuệ.
  • Thuộc một trong các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền liên quan và giới hạn quyền liên quan quy định tại Luật sở hữu trí tuệ.
  • Thời gian bảo hộ quyền của nhà sản xuất đối với bản ghi âm ghi hình theo Khoản 2 Điều 34 Luật Sở hữu trí tuệ:
  • Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ năm mươi năm tính từ năm tiếp theo năm công bố hoặc năm mươi năm kể từ năm tiếp theo năm bản ghi âm, ghi hình được định hình nếu bản ghi âm, ghi hình chưa được công bố.

Như vậy, theo quy định, thời hạn bảo hộ quyền liên quan của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình là năm mươi năm tính từ năm tiếp theo năm công bố hoặc năm mươi năm kể từ năm tiếp theo năm bản ghi âm, ghi hình được định hình nếu bản ghi âm, ghi hình chưa được công bố. Thời hạn bảo hộ này sẽ chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ các quyền liên quan.

Thừa kế bản quyền âm nhạc khi nhạc sĩ qua đời

Quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế là quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo vệ. Người dân có quyền quyết định về việc để lại tài sản của mình sau khi qua đời và quyền thừa kế tài sản từ người đã qua đời.Tài sản thừa kế có thể bao gồm các loại tài sản như tiền mặt, tài sản vật chất (như nhà cửa, đất đai, phương tiện giao thông), giấy tờ có giá trị (như chứng chỉ cổ phần, hợp đồng, giấy tờ tài sản), quyền sở hữu trí tuệ (như bản quyền, nhãn hiệu, bằng sáng chế), và các loại tài sản khác. Vậy, pháp luật quy định về Thừa kế bản quyền âm nhạc khi nhạc sĩ qua đời như thế nào?. Hãy theo dõi bài viết của VCD dưới đây.

1. Thừa kế bản quyền âm nhạc là gì

Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 14 Luật Sở Hữu trí tuệ 2005 thì tác phẩm âm nhạc là một trong các loại hình tác phẩm nghệ thuật được bảo hộ quyền tác giả. Dẫn chiếu đến khoản 4 Điều 6 Nghị định 17/2023/NĐ-CP thì “Tác phẩm âm nhạc quy định tại điểm d khoản 1 Điều 14 của Luật Sở hữu trí tuệ là tác phẩm được thể hiện dưới dạng nhạc nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn.”

Tác phẩm âm nhạc được bảo hộ quyền tác giả kể từ thời điểm tác phẩm được tạo ra dưới hình thức có thể ghi nhận được ở dạng vật chất, hình thức ghi nhân có thể là trên giấy, đánh máy hoặc một hình thức ghi nhận khác, Như vậy, khi nhạc sĩ chỉ mới suy nghĩ lời nhạc ở trong đầu mà chưa thể hiện ở hình thức vật chất, thì bài nhạc chưa được quyền tác giả bảo hộ.

Bản quyền âm nhạc được hiểu là quyền của tác giả đối với tác phẩm được thể hiện dưới dạng nhạc nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác hoặc được định hình trên bản ghi âm, ghi hình có hoặc không có lời, không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn kể từ thời điểm mà tác giả tạo ra tác phẩm.

Do đó, thừa kế bản quyền âm nhạc là quá trình chuyển giao các quyền liên quan đến tác phẩm âm nhạc từ nhạc sĩ (tác giả) đã qua đời sang người thừa kế hợp pháp. Quá trình này được điều chỉnh bởi Luật Sở hữu trí tuệ và các quy định về thừa kế trong Bộ luật Dân sự. Khi thừa kế bản quyền âm nhạc, người thừa kế sẽ nhận được các quyền tài sản và một số quyền nhân thân liên quan đến tác phẩm âm nhạc đó.

Thừa kế bản quyền âm nhạc khi nhạc sĩ qua đời

2. Quy định của pháp luật về thừa kế bản quyền âm nhạc khi nhạc sĩ qua đời

Khi một nhạc sĩ qua đời, quyền tác giả của các bài hát do nhạc sĩ đó sáng tác sẽ được thừa kế theo quy định của pháp luật.

  • Thừa kế theo di chúc: Nếu nhạc sĩ có lập di chúc, quyền tác giả sẽ được chuyển giao theo nội dung của di chúc. Di chúc phải tuân theo quy định của pháp luật về hình thức và nội dung để có hiệu lực pháp lý.
  • Thừa kế theo pháp luật: Nếu nhạc sĩ không để lại di chúc hoặc di chúc không hợp pháp, quyền tác giả sẽ được thừa kế theo quy định của pháp luật về thừa kế. Theo Bộ luật Dân sự Việt Nam, những người thừa kế theo pháp luật bao gồm:
  • Hàng thừa kế thứ nhất: vợ/chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
  • Hàng thừa kế thứ hai: ông bà nội, ông bà ngoại, anh chị em ruột của người chết, cháu ruột mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
  • Hàng thừa kế thứ ba: cụ nội, cụ ngoại của người chết, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

   Căn cứ vào Điều 40 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định về thừa kế quyền tác giả như sau: Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân được thừa kế quyền tác giả theo quy định của pháp luật về thừa kế là chủ sở hữu các quyền quy định tại Điều 20 và khoản 3 Điều 19 của Luật này.

– Cụ thể, tại Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, được sửa đổi bởi khoản 5 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 (Có hiệu lực từ 01/01/2023) quy định quyền nhân thân như sau:

Quyền nhân thân bao gồm:

1. Đặt tên cho tác phẩm.

Tác giả có quyền chuyển quyền sử dụng quyền đặt tên tác phẩm cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao quyền tài sản quy định tại khoản 1 Điều 20 của Luật này;

2. Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;

3. Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;

4. Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc; không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

– Theo Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, được sửa đổi bởi khoản 5 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 (Có hiệu lực từ 01/01/2023) quy định về quyền tài sản như sau:

1. Quyền tài sản bao gồm:

a) Làm tác phẩm phái sinh;

b) Biểu diễn tác phẩm trước công chúng trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các bản ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào tại địa điểm mà công chúng có thể tiếp cận được nhưng công chúng không thể tự do lựa chọn thời gian và từng phần tác phẩm;

3. Chủ sở hữu quyền tác giả không có quyền ngăn cấm tổ chức, cá nhân khác thực hiện các hành vi sau đây:

a) Sao chép tác phẩm chỉ để thực hiện các quyền khác theo quy định của Luật này; sao chép tạm thời theo một quy trình công nghệ, trong quá trình hoạt động của các thiết bị để truyền phát trong một mạng lưới giữa các bên thứ ba thông qua trung gian hoặc sử dụng hợp pháp tác phẩm, không có mục đích kinh tế độc lập và bản sao bị tự động xóa bỏ, không có khả năng phục hồi lại;

b) Phân phối lần tiếp theo, nhập khẩu để phân phối đối với bản gốc, bản sao tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện hoặc cho phép thực hiện việc phân phối.

Như vậy, từ quy định trên thì người thừa kế sẽ được thừa kế các quyền tác giả như sau:

+ Quyền nhân thân: Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; (các quyền còn lại là quyền nhân thân gắn liền với tác giả nên không thể thừa kế).

+ Quyền tài sản như quy định trên.

Thông thường, quyền tác giả sẽ được chuyển giao cho người thừa kế theo di chúc của nhạc sĩ hoặc theo quy định của pháp luật về di sản. Người thừa kế có thể là người trong gia đình nhạc sĩ, như con cái, vợ/chồng hoặc người bạn thân. Trong một số trường hợp, nhạc sĩ có thể chỉ định một người được ủy quyền để quản lý tác phẩm và quyền tác giả sau khi họ qua đời. Quyền tác giả cũng có thể được chuyển nhượng hoặc bán trong trường hợp nhạc sĩ đã lập di chúc hoặc thỏa thuận trước khi qua đời. Trong những trường hợp này, người mua hoặc nhận chuyển nhượng sẽ trở thành chủ sở hữu quyền tác giả.

– Tuy nhiên, người thừa kế chỉ được thực hiện các quyền tác giả được thừa kế trong thời hạn bảo hộ tác giả còn lại.  Căn cứ vào Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 thì thời hạn bảo hộ quyền tác giả (được sửa đổi bởi khoản 8 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2009 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2010) được quy định như sau:

Thời hạn bảo hộ quyền tác giả

1. Quyền nhân thân quy định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều 19 của Luật này được bảo hộ vô thời hạn.

2. Quyền nhân thân quy định tại khoản 3 Điều 19 và quyền tài sản quy định tại Điều 20 của Luật này có thời hạn bảo hộ như sau:

….

b) Tác phẩm không thuộc loại hình quy định tại điểm a khoản này có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết;

c) Thời hạn bảo hộ quy định tại điểm a và điểm b khoản này chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả.

Như vậy, theo quy định trên thì những yếu tố sau đây sẽ được bảo hộ mãi mãi bao gồm:

+ Tên của tác phẩm;

+ Tên thật hoặc bút danh của tác giả;

+ Sự toàn vẹn của tác phẩm;

Ngoài những yếu tố trên, tác phẩm sẽ có thời gian bảo hộ hữu hạn đối với tác phẩm âm nhạc là 50 năm tiếp theo năm tác giả chết. Như vậy, VCD thấy rằng  thừa kế bản quyền âm nhạc là một vấn đề pháp lý quan trọng nhằm đảm bảo quyền lợi của tác giả và người thừa kế. Việc tuân thủ các quy định pháp luật về thừa kế giúp bảo vệ và phát triển các giá trị văn hóa, nghệ thuật, đồng thời đảm bảo sự công bằng và minh bạch trong việc sử dụng

Hát trong liên hoan cơ quan có phải trả tiền bản quyền không?

Trong nền văn hóa Việt Nam, hát và âm nhạc đóng vai trò quan trọng trong các sự kiện văn hóa, gia đình và cộng đồng. Hát trong liên hoan cơ quan cũng là một hoạt động phổ biến và được ưa chuộng ở Việt Nam.Trong các liên hoan cơ quan, các tiết mục hát và biểu diễn âm nhạc thường được tổ chức như một phần của chương trình giải trí hoặc sự kiện nội bộ. Nhân viên có thể thể hiện kỹ năng hát solo, hợp ca, hoặc tham gia các nhóm nhạc, ban nhạc, hoặc đội hát karaoke thể hiện tài năng âm nhạc của mình và tạo ra không khí vui tươi, sôi động. Tuy nhiên mọi người thường không chú trọng việc hát như vậy có bị vi phạm bản quyền không?. Bài viết “Hát trong liên hoan cơ quan có phải trả tiền bản quyền không?” của VCD dưới đây sẽ giải đáp thắc mắc này.

1. Quy định của pháp luật về bản quyền âm nhạc

Quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc là một dạng quyền tác giả nói chung, được quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, được sửa đổi bổ sung các năm 2009, 2019, 2022 (Sau đây gọi tắt là “Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã sửa đổi, bổ sung”) như sau: “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”.

Như vậy, quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm âm nhạc do mình sáng tác hoặc sở hữu, bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm âm nhạc đó.Về nguyên tắc, quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc được bảo hộ phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo mà không phụ thuộc vào việc đã đăng ký hay chưa đăng ký.

Tác phẩm âm nhạc thuộc về công chúng, hay còn gọi là “tác phẩm thuộc phạm vi công cộng” (public domain), là những tác phẩm mà quyền tác giả không còn được bảo hộ bởi luật sở hữu trí tuệ. Điều này có thể xảy ra vì nhiều lý do, bao gồm hết thời hạn bảo hộ quyền tác giả hoặc tác giả tự nguyện từ bỏ quyền tác giả. Khi một tác phẩm âm nhạc thuộc về công chúng, bất kỳ ai cũng có thể sử dụng, sao chép, biểu diễn, và phân phối tác phẩm đó mà không cần xin phép hoặc trả tiền bản quyền.

Hát trong liên hoan cơ quan có phải trả tiền bản quyền không?

2. Hát trong liên hoan cơ quan có phải trả tiền bản quyền không

“Hát trong liên hoan cơ quan” có thể hiểu là việc biểu diễn âm nhạc hoặc hát karaoke trong một sự kiện liên hoan của một cơ quan, tổ chức hoặc doanh nghiệp. Thông thường, trong một liên hoan cơ quan, nhân viên và thành viên của cơ quan sẽ tham gia biểu diễn các tiết mục âm nhạc để giải trí và tạo không khí vui vẻ cho sự kiện.

Hát trong liên hoan cơ quan có phải trả tiền bản quyền hay không phụ thuộc vào một số yếu tố, bao gồm mục đích và phạm vi sử dụng tác phẩm âm nhạc:

  • Phạm vi sử dụng không vì mục đích thương mại:

Nếu việc hát trong liên hoan cơ quan chỉ là hoạt động nội bộ, không có mục đích thương mại, và không thu phí từ người tham dự, thì theo thông lệ, có thể không cần phải trả tiền bản quyền. Đây là vì mục đích sử dụng ở đây là phi thương mại, mang tính chất giải trí, gắn kết nội bộ.

Tuy nhiên, nếu sử dụng các thiết bị, phần mềm, hoặc dịch vụ karaoke mà bản thân các dịch vụ này đã bao gồm phí bản quyền, thì có thể không cần trả thêm phí bản quyền riêng lẻ cho từng bài hát.

  • Phạm vi sử dụng vì mục đích thương mại:

Nếu buổi liên hoan có thu phí từ người tham dự hoặc có mục đích thương mại nào khác, thì cần phải trả tiền bản quyền. Ví dụ, nếu sự kiện được tổ chức tại một địa điểm kinh doanh karaoke hoặc có nhà tài trợ, thì cơ quan tổ chức có thể cần ký hợp đồng và trả tiền bản quyền cho việc sử dụng các bài hát có bản quyền.

Do đó, nếu một bài hát chưa phải là tác phẩm thuộc về công chúng thì phải trả tiền bản quyền cho tác giả nếu thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào.

Tác phẩm thuộc về công chúng là những tác phẩm đã kết thúc thời hiệu bảo hộ theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019). Luật Sở hữu trí tuệ ở Việt Nam có quy định về thời hạn bảo hộ quyền tác giả, và quy định về thời hạn bảo hộ đối với từng loại hình cụ thể sẽ có những điểm khác nhau. Nhưng chung quy lại, sau khi kết thúc thời hạn bảo hộ, tác phẩm sẽ thuộc về công chúng và mọi người được phép khai thác, sử dụng tác phẩm đó với điều kiện không xâm phạm tới quyền nhân thân của tác giả.

Theo quy định của pháp luật thì quyền tác giả sẽ được phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định mà không cần phải đăng ký quyền tác giả, chính vì thế nó có đầy đủ các quyền.

Tuy tác phẩm công chúng chúng ta có quyền sử dụng mà không cần phải xin phép nhưng khi sử dụng cũng cần phải lưu ý một số vấn đề.

Cụ thể tại Khoản 2 Điều 43 Luật Sở hữu trí tuệ quy định điều kiện khi mọi tổ chức, cá nhân có thể sử dụng tác phẩm này như sau:

“2. Mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền sử dụng tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này nhưng phải tôn trọng các quyền nhân thân của tác giả quy định tại Điều 19 của Luật này”.

Quyền nhân thân của tác giả theo Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ bao gồm các quyền:

  • Đặt tên cho tác phẩm
  • Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm
  • Được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng
  • Được công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm
  • Không cho người khác sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

 Như vậy, khi mọi tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm thuộc về công chúng thì phải tôn trọng quyên nhân thân đã nêu trên của tác giả.

Bên cạnh đó, nếu việc sử dụng tác phẩm này mà gây phương hại tới quyền nhân thân của tác giả thì tổ chức, cá nhân vi phạm sẽ bị:

  • Yêu cầu chấm dứt hành vi xâm phạm
  • Xin lỗi, cải chính công khai
  • Bồi thường thiệt hại
  • Thậm chí có thể bị khiếu nại, tố cáo tùy theo tính chất, mức độ xâm phạm và bị xử lý hành chính, dân sự hoặc hình sự.

Qua đây VCD thấy rằng dù tác phẩm âm nhạc thuộc về công chúng, bản ghi âm hoặc các bản phối lại hiện đại của tác phẩm đó có thể vẫn được bảo hộ bởi quyền liên quan (quyền của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, và tổ chức phát sóng).Tác phẩm âm nhạc thuộc về công chúng là một phần quan trọng của di sản văn hóa và nghệ thuật, cho phép mọi người tiếp cận, sử dụng, và phát triển dựa trên những giá trị đã có. Việc hiểu và xác định chính xác các tác phẩm thuộc về công chúng giúp đảm bảo tuân thủ pháp luật và tận dụng hiệu quả các tài nguyên văn hóa.

Kinh doanh hát karaoke có phải trả tiền bản quyền?

Ở Việt Nam, khi một bài hát nào mới vừa phát hành là ở các cửa hàng, quán cafe, nhà hàng,… đều có thể sử dụng bài hát để phát lại trong quán của mình. Đặc biệt là các quán karaoke hiện nay đều sử dụng bài để kinh doanh, vậy khi sử dụng các bài hát đó thì có phải trả tiền bản quyền cho tác giả bài hát hay không? Hãy theo dõi bài viết dưới đây của VCD.

1. Quy định về Bản quyền âm nhạc

Tác phẩm âm nhạc là tác phẩm được thể hiện dưới dạng nhạc nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác hoặc được định hình trên bản ghi âm, ghi hình có hoặc không có lời, không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn (Điều 10 nghị định 22/2018/NĐ-CP).

Còn về bản ghi âm, ghi hình là bản định hình các âm thanh, hình ảnh của cuộc biểu diễn hoặc các âm thanh, hình ảnh khác hoặc việc định hình sự tái hiện lại các âm thanh, hình ảnh không phải dưới hình thức định hình gắn với tác phẩm điện ảnh hoặc tác phẩm được đọc được tạo ra theo phương pháp tương tự.

Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009) bản ghi âm, ghi hình bài hát là đối tượng được bảo hộ quyền liên quan. Những tổ chức, cá nhân khi sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã công bố trong hoạt động kinh doanh, thương mại không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao theo thỏa thuận cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng kể từ khi sử dụng (khoản 2 Điều 33 Luật Sở hữu trí tuệ).

Sử dụng bản ghi âm, ghi hình các bài hát là việc tổ chức, cá nhân sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình đó để sử dụng tại nhà hàng, khách sạn, cửa hàng, siêu thị; cơ sở kinh doanh dịch vụ karaoke, dịch vụ bưu chính, viễn thông, môi trường kỹ thuật số; trong các hoạt động du lịch, hàng không, giao thông công cộng.

Karaoke là hình thức giải trí hát lại lời bài hát trên nền nhạc đã được thu sẵn, lời bài hát sẽ được thể hiện trên một màn hình. Về bản chất, đối tượng kinh doanh của dịch vụ karaoke là bản ghi âm, ghi hình một cuộc biểu diện của các tác phẩm âm nhạc và đây đều là những đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, trên thực tế trong hoạt động kinh doanh karaoke, những chủ thể kinh doanh đều không để tâm đến việc thanh toán tiền nhuận bút, thù lao cho các chủ thể sở hữu quyền sở hữu trí tuệ.

Kinh doanh hát karaoke có phải trả tiền bản quyền?

2. Kinh doanh hát karaoke có phải trả tiền bản quyền không

Thực tế hiện nay trong hoạt động kinh doanh karaoke đặc biệt là các chủ chủ thể kinh doanh có quy mô nhỏ thường không chú trọng đến việc tuân thủ quy định bản quyền, việc sử dụng các bài hát mà không trả tiền bản quyền vẫn diễn ra.

Ngoài hoạt động karaoke truyền thống tức là sao chép các bài hát vào các đĩa CD hay một hệ thống lưu trữ cố định thì việc kinh doanh Karaoke hiện nay còn dựa trên các bản ghi âm và ghi hình trực tuyến từ các trang web như YouTube, nhaccuatui và các nền tảng trực tuyến khác đã trở nên phổ biến.

Tuy nhiên, đa số người kinh doanh Karaoke tại Việt Nam thường chỉ chú trọng đáp ứng các điều kiện hoạt động kinh doanh karaoke theo quy định pháp luật, chẳng hạn như thành lập doanh nghiệp hộ kinh doanh và tuân thủ các quy định về phòng cháy nổ và diện tích phòng hát tối thiểu.

Do đó, việc sử dụng các bản ghi trong kinh doanh karaoke thuộc trường hợp sử dụng tác phẩm bản ghi âm ghi hình đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao theo quy định tại Điều 26, Điều 33 Luật sở hữu trí tuệ.

Cụ thể tại khoản 2 Điều 43 Nghị định 22/2018/NĐ-CP quy định:

“Tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng theo quy định tại khoản một điều 26, khoản một và khoản hai điều ba của luật sở hữu trí tuệ có nghĩa vụ liên lạc trực tiếp với chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan hoặc tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan về việc khai thác, sử dụng. Trường hợp không liên lạc trực tiếp được với chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan thì tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tác phẩm bản ghi âm ghi hình, chương trình phát sóng, thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng”.

Cùng với đó, khoản 1 Điều 45 Nghị định 22/2018/NĐ-CP cũng quy định cụ thể hơn về trường hợp khai thác, sử dụng bản ghi âm, ghi hình: “Tổ chức, cá nhân sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 33 của Luật sở hữu trí tuệ phải trả tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất cho chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan.”

Theo đó, tuy không phải xin phép tác giả nhưng khi sử dụng bài hát tại các quán karaoke thì họ sẽ phải trả tiền nhuận bút, thù lao hoặc quyền lợi vật chất khác cho nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình (hoặc cá nhân, tổ chức đại diện cho tác giả) theo thỏa thuận của các bên hoặc nếu không có thỏa thuận thì theo biểu giá và phương thức thanh toán do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành.

Nếu tổ chức, cá nhân sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã công bố nhằm mục đích thương mại trong cơ sở kinh doanh dịch vụ karaoke, dịch vụ bưu chính viễn thông, môi trường kỹ thuật số mà không trả tiền sử dụng cho chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan theo quy định sẽ bị phạt tiền từ 15.000.000 đến 25.000.000 đồng (theo Khoản 3 Điều 29 Nghị định 131/2013/NĐ-CP).

Tuy nhiên trên thực tế VCD thấy rằng để thu phí bản quyền tác giả và tác quyền bản ghi âm rất là khó, bởi có rất nhiều cơ sở sử dụng và rất khó kiểm soát. Mức phí thu cũng chưa được rõ ràng và hợp lý khiến cho công tác thu phí bản quyền càng khó khăn hơn. Do đó, các tổ chức cá nhân kinh doanh karaoke có thể tìm đến các tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan được pháp luật công nhận – là các tổ chức được nghệ sĩ ủy quyền tác quyền âm nhạc, để nhanh chóng thực hiện các nghĩa vụ thanh toán nhuận bút, thù lao cho việc sử dụng vẫn ghi trong hoạt động kinh doanh của mình.

Bản quyền âm nhạc trong tác phẩm điện ảnh

Tiềm năng và sự phát triển của thị trường điện ảnh Việt Nam đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đối tác trong và ngoài nước, và nó có thể tiếp tục phát triển mạnh trong xã hội và đem lại giá trị văn hóa của một quốc gia. Âm nhạc có thể tạo ra một loạt cảm xúc và truyền tải thông điệp sâu sắc trong tác phẩm điện ảnh. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc làm tăng tính chất lãng mạn, hài hước, căng thẳng hoặc xúc động của một cảnh quan trọng trong tác phẩm. Vậy bản quyền âm nhạc trong tác phẩm điện ảnh được pháp luật quy định như thế nào?. Hãy theo dõi bài viết của VCD dưới đây.

1. Bản quyền âm nhạc trong tác phẩm điện ảnh

Định nghĩa tại khoản 1 Điều 12 Nghị đinh 22/2018/NĐ-CP, tác phẩm điện ảnh là tác phẩm được thể hiện bằng hình ảnh động kết hợp hoặc không kết hợp với âm thanh và các phương tiện khác theo nguyên tắc của ngôn ngữ điện ảnh. Hình ảnh tĩnh được lấy ra từ một tác phẩm điện ảnh là một phần của tác phẩm điện ảnh đó.

Bản quyền âm nhạc trong tác phẩm điện ảnh” là thuật ngữ để chỉ quyền sở hữu và quyền sử dụng âm nhạc trong một tác phẩm điện ảnh. Nó ám chỉ các quyền được cấp phép và bảo vệ pháp lý liên quan đến việc sử dụng âm nhạc trong một bộ phim. Nó cũng bao gồm các quyền của tác giả âm nhạc đối với việc sử dụng, sao chép, phân phối, biểu diễn, và truyền đạt tác phẩm của họ trong một bộ phim.

Quyền sở hữu bản quyền âm nhạc trong tác phẩm điện ảnh thuộc về người sáng tác âm nhạc hoặc chủ sở hữu bản quyền âm nhạc. Những người này có quyền kiểm soát việc sao chép, phân phối, trình diễn công khai, thu phí và tạo các phiên bản dựa trên âm nhạc của họ.

Quyền sử dụng âm nhạc trong tác phẩm điện ảnh là quyền được cấp phép để sử dụng âm nhạc trong phim. Các nhà sản xuất phim phải xin phép từ chủ sở hữu bản quyền âm nhạc hoặc từ các công ty đại diện bản quyền để sử dụng âm nhạc trong tác phẩm của họ. Quyền sử dụng âm nhạc có thể bao gồm việc sử dụng trong phim, trailer, quảng cáo hoặc các hình thức khác liên quan đến tác phẩm điện ảnh.

Bản quyền âm nhạc trong tác phẩm điện ảnh

2. Quy định của pháp luật về bản quyền âm nhạc trong tác phẩm điện ảnh

Mục đích Pháp luật có quy định bản quyền âm nhạc trong tác phẩm điện ảnh để:

  • Bảo vệ quyền lợi của tác giả: Đảm bảo tác giả âm nhạc nhận được sự công nhận và thù lao xứng đáng cho công sức sáng tạo của họ.
  • Khuyến khích sáng tạo: Tạo động lực cho các nhà sáng tạo âm nhạc tiếp tục đóng góp cho nền văn hóa và nghệ thuật.
  • Đảm bảo tính hợp pháp: Giúp các nhà sản xuất phim tuân thủ luật pháp về sở hữu trí tuệ, tránh các tranh chấp pháp lý liên quan đến việc sử dụng trái phép tác phẩm âm nhạc.

Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) Việt Nam, khi tác phẩm âm nhạc được sử dụng trong phim, các quyền tài sản thuộc quyền tác giả sẽ phát sinh, và người sử dụng tác phẩm (nhà sản xuất phim) sẽ có các nghĩa vụ tương ứng. Các quyền tài sản này bao gồm:

a. Quyền sao chép tác phẩm:

Tại điểm c khoản 1 Điều 20 Luật SHTT, quy định là: “Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp toàn bộ hoặc một phần tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào…” Như vậy,tác giả có quyền sao chép tác phẩm âm nhạc của mình dưới mọi hình thức, bao gồm sao chép tác phẩm vào phim.

Nhà sản xuất phim phải xin phép và trả tiền bản quyền cho việc sao chép tác phẩm âm nhạc vào phim. Âm nhạc được sử dụng trong phim có thể được xin phép thông qua hai hình thức, đặt hàng (thuê) tác giả viết mới một ca khúc hoặc xin phép chủ sở hữu để được sử dụng ca khúc đã có sẵn để sản xuất phim. Trong cả hai trường hợp, việc xin phép và quản lý bản quyền âm nhạc trong phim là rất quan trọng để đảm bảo tuân thủ pháp luật và bảo vệ quyền lợi của tác giả và các chủ sở hữu tác quyền.

Nếu các đơn vị phát hành trực tuyến cho phép người dùng tải về để xem sẽ làm phát sinh “quyền sao chép”. Các rạp khi trình chiếu phim thì sẽ phát sinh nghĩa vụ đối với “quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng”, còn khi bộ phim được phát sóng trên các kênh truyền hình, các nền tảng truyền hình trực tuyến thì sẽ phát sinh “quyền phát sóng, quyền truyền đạt”.

Khi bộ phim được phát hành, phân phối và trình chiếu ở các môi trường khác nhau, cũng như trên các nền tảng trực tuyến và các đơn vị phát sóng, các quyền liên quan đến âm nhạc trong phim sẽ tiếp tục phát sinh. Việc phát hành bộ phim trên các nền tảng này đòi hỏi người sở hữu quyền tác giả hoặc quản lý bản quyền âm nhạc thu phí tương ứng.

b. Quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng

Tác giả có quyền biểu diễn tác phẩm âm nhạc của mình trước công chúng. Tại điểm b khoản 1 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ, cụ thể là: “Biểu diễn tác phẩm trước công chúng trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các bản ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào tại địa điểm mà công chúng có thể tiếp cận được nhưng công chúng không thể tự do lựa chọn thời gian và từng phần tác phẩm;”.

Để bộ phim có thể đến với công chúng, không thể bỏ qua vai trò của các rạp chiếu phim, là điểm đến của các bộ phim điện ảnh và cũng là nơi công chúng được tiếp cận tác phẩm điện ảnh. Khi bộ phim được trình chiếu tại rạp, các ca khúc đã được sử dụng trong phim có thể được phát trong quá trình chiếu để tạo không khí và truyền đạt thông điệp của phim đến khán giả,có thể được phát trong không gian sảnh chờ, nơi mua vé và các khu vực khác trong rạp phim để tạo không gian âm nhạc liên quan đến phim ngoài ra còn được sử dụng trong trailer, teaser và các hoạt động quảng bá phim…

Như đã phân tích về quyền sao chép ở trên, có thể thấy được sự khác biệt giữa mục đích sử dụng tác phẩm âm nhạc của nhà sản xuất và các rạp phim. Cả hai bên có mục đích sử dụng khác nhau  có quyền và trách nhiệm riêng: một bên là đơn vị sử dụng tác phẩm âm nhạc để tạo ra một sản phẩm/tác phẩm điện ảnh và một bên là đơn vị trình chiếu, biểu diễn tác phẩm âm nhạc cùng với tác phẩm điện ảnh. Việc xác định rõ vai trò và mục đích sử dụng tác phẩm âm nhạc giữa nhà sản xuất phim và các rạp chiếu phim là quan trọng để đảm bảo việc quản lý bản quyền và thu phí được thực hiện đúng và công bằng.

c. Quyền phát sóng, truyền đạt tác phẩm đến công chúng

Tại điểm đ khoản 1 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ, quy định là: “Phát sóng, truyền đạt đến công chúng tác phẩm bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác…”. Khi các tác phẩm điện ảnh được trình chiếu, phát trên truyền hình sẽ làm phát sinh quyền phát sóng, truyền đạt đến công chúng tác phẩm đối với các tác phẩm âm nhạc được sử dụng trong phim.

Sự phát triển của các nền tảng truyền hình OTT (Over-The-Top) và các dịch vụ phát sóng trực tuyến đã tạo ra một môi trường mới cho việc tiếp cận và tiêu thụ nội dung giải trí. Điều này đặt ra những thách thức mới trong việc bảo vệ quyền tác giả và quản lý bản quyền, bao gồm cả tác phẩm âm nhạc được sử dụng trong phim. Sự thuận tiện trong việc truy cập phim, chương trình truyền hình đã làm biến đổi cách khán giả tương tác với nội dung, và cuộc cách mạng số hóa này cũng mang đến những thách thức chưa từng có trong việc bảo mật và bảo vệ quyền tác giả, yêu cầu đặt ra là cần phải có các giải pháp mới để bảo vệ nội dung khỏi hàng loạt các rủi ro về xâm phạm quyền tác giả, không chỉ là đối với tác phẩm điện ảnh mà còn với tác phẩm âm nhạc được sử dụng trong phim.

Như vậy, quy định pháp luật về quyền tác giả âm nhạc trong lĩnh vực điện ảnh ở Việt Nam đã giúp bảo vệ quyền lợi của người sáng tác âm nhạc và đảm bảo sự công bằng trong việc sử dụng tác phẩm âm nhạc trong phim. Việc tuân thủ các quy định này là quan trọng để đảm bảo việc sử dụng âm nhạc trong điện ảnh được thực hiện đúng luật và đảm bảo quyền lợi của các tác giả âm nhạc.