Skip to main content

Tác giả: Biên Tập Viên

Có thể từ chối thừa kế quyền tác giả hay không?

Luật Sở hữu trí tuệ có quy định về chủ sở hữu quyền tác giả là người thừa kế, vậy người được thừa kế có thể từ chối quyền thừa kế của mình hay không? Mời bạn đọc theo dõi bài viết “Có thể từ chối thừa kế quyền tác giả hay không” của VCD để biết thêm thông tin chi tiết.

1. Thừa kế quyền tác giả

Quyền tác giả quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo hoặc sở hữu. Quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản, trong đó có một số quyền có thể để lại thừa kế theo quy định của pháp luật Dân sự.

Tài sản của cá nhân có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản, mà có quyền tài sản nằm trong quyền tác giả. Vậy, khi cá nhân sở hữu quyền tác giả chết và để lại tài sản của mình cho người thừa kế thì quyền tác giả đương nhiên sẽ trở thành di sản thừa kế.

Điều 40 Luật SHTT có quy định về chủ sở hữu quyền tác giả là người thừa kế, cụ thể:

“Tổ chức, cá nhân được thừa kế quyền tác giả theo quy định của pháp luật về thừa kế là chủ sở hữu các quyền quy định tại Điều 20 và khoản 3 Điều 19 của Luật này.”

Theo đó, người được nhận thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật sẽ trở thành chủ sở hữu của các di sản thừa kế này. Tuy nhiên, người thừa kế không thừa hưởng hết toàn bộ quyền tác giả mà chỉ là chủ sở hữu của các quyền công bố tác phẩm và các quyền tài sản trong quyền tác giả.

2. Từ chối thừa kế tác phẩm

Trên cơ sở đó tại Điều 40 Luật Sở hữu trí tuệ quy định cá nhân được thừa kế quyền tác giả nhưng chỉ một số quyền nhất định. Đối với quyền nhân thân, cá nhân chỉ được nhận thừa kế quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm. Những quyền nhân thân khác không thể để lại thừa kế bởi những quyền này gắn liền với cá nhân mỗi người, thường là tên gọi, uy tín, danh dự, nhân phẩm… chỉ cá nhân đó mới thực hiện được. Còn đối với quyền tài sản thì được thừa kế toàn bộ theo quy định của pháp luật giống như là tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả ban đầu của tác phẩm, cụ thể các quyền sau:

  • Làm tác phẩm phái sinh;
  • Biểu diễn tác phẩm trước công chúng;
  • Sao chép tác phẩm;
  • Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm;
  • Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác;
  • Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.

Việc từ chối nhận thừa kế được thực hiện theo quy định trong Bộ luật Dân sự 2015. Theo đó, người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản quy định tại Điều 620 Bộ luật Dân sự như sau.

“1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.

2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết.

3. Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản.”

Như vậy, cá nhân có quyền từ chối nhận di sản là quyền tác giả và phải tuân thủ các điều kiện theo quy định của Bộ luật Dân sự. Trong trường hợp người thừa kế từ chối nhận di sản mà tác phẩm còn trong thời hạn bảo hộ thì tác phẩm sẽ thuộc về Nhà nước theo quy định của luật SHTT Việt Nam.

Scan có được coi là hình thức sao chép tác phẩm?

Scan là một trong những cách phổ biến mà người dùng thông qua việc quét lại các giấy tờ bản cứng để lưu lại thành các file hình ảnh trên máy tính, điện thoại. Dưới góc độ pháp lý, các hoạt động scan tài liệu có phải là hình thức sao chép tác phẩm không? Mời bạn đọc theo dõi bài viết “Scan có được coi là hình thức sao chép tác phẩm?” của VCD để tìm hiểu thêm.

1. Scan có được coi là hình thức sao chép tác phẩm?

Scan là việc chuyển các dữ liệu trên giấy tờ, tài liệu, hình ảnh trên giấy thành dữ liệu, hình ảnh, file lưu trữ trên máy tính, điện thoại thông qua một chiếc máy scan, máy in có tính năng scan hoặc qua ứng dụng scan trên điện thoại thông minh.

Căn cứ quy định tại Khoản 4, 5 Điều 3 Nghị định số 17/2023/NĐ-CP, bản gốc, bản sao của tác phẩm được định nghĩa như sau:

“4. Bản gốc tác phẩm là bản được tồn tại dưới dạng vật chất mà trên đó việc sáng tạo tác phẩm được định hình lần đầu tiên.

5. Bản sao của tác phẩm là bản sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp toàn bộ hoặc một phần tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào.”

Đồng thời, khoản 10 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ nêu rõ, sao chép là việc tạo ra một hoặc nhiều bản sao của tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc tạo bản sao dưới hình thức điện tử.

Từ các quy định trên, ta có thể thấy rằng việc scan thực chất là đang tạo ra một bản sao của tác phẩm gốc dưới hình thức điện tử, vậy nên đây là hành vi sao chép tác phẩm.

2. Scan tác phẩm có phải xin phép tác giả không?

Quyền sao chép tác phẩm là một trong những quyền tài sản do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện được quy định tại Khoản 1 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ

Mọi tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền nhân thân và quyền tài sản phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả. Những hành vi sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả là hành vi vi phạm bản quyền tác giả.

Tuy nhiên, có một số trường hợp ngoại lệ cho phép việc sao chép tác phẩm mà không phải xin phép, trả tiền nhuận bút, thù lao cho tác giả được quy định tại điểm a, đ khoản 1 Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ gồm:

  • Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân;
  • Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu.

Như vậy, scan là một trong những hình thức sao chép tác phẩm và tùy vào mục đích sao chép, tổ chức cá nhân phải xin phép, trả tiền nhuận bút, thù lao cho tác giả hoặc không cần. Tuy nhiên, cần tôn trọng tác giả và quyền tác giả khi sao chép tác phẩm, khi sử dụng phải nêu rõ thông tin tác giả và nguồn từ tác phẩm gốc.

Bảo hộ bản quyền kịch bản chương trình

Để tạo nên một chương trình hoàn chỉnh, đầy đủ nội dung, hoạt động theo từng kế hoạch cụ thể và phù hợp với thị hiếu khán giản thì chương trình phải có một kịch bản hay và hoàn chỉnh. Do đó, để đảm bảo công sức, tiền bạc đã bỏ ra xây dựng kịch bản không bị sao chép thì việc bảo hộ bản quyền kịch bản chương trình là vô cùng cần thiết. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây của VCD đề tìm hiểu về bảo hộ bản quyền kịch bản chương trình.

1. Kịch bản chương trình là gì?

Kịch bản chương trình có thể hiểu là một bản mô tả chi tiết về nội dung và quy trình của một chương trình truyền hình, phát thanh hoặc sự kiện trực tiếp. Nó định nghĩa các phần chính của chương trình, bao gồm lời mở đầu, mục tiêu, nội dung, kịch bản trò chuyện giữa người dẫn chương trình và khách mời, và các phần khác nhau để xây dựng sự kết hợp hài hòa và mạch lạc của chương trình.

Kịch bản chương trình cung cấp một hướng dẫn cho người dẫn chương trình và các thành viên trong đoàn làm phim/truyền hình về cách diễn đạt, tương tác và thực hiện chương trình một cách chuyên nghiệp, đảm bảo rằng chương trình diễn ra suôn sẻ và theo kế hoạch.

Đồng thời, giúp đảm bảo rằng mọi người tham gia chương trình có một hướng dẫn rõ ràng về cách diễn đạt, nội dung và luồng làm việc. Đây cũng là một công cụ hữu ích để sắp xếp và kiểm soát thời gian chương trình một cách hiệu quả.

2. Bảo hộ bản quyền kịch bản chương trình

Bảo hộ bản quyền kịch bản chương trình là cách thức, biện pháp được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sử dụng nhằm tạo ra hành lang pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của chủ sở hữu bản quyền kịch bản chương trình cũng như là các chủ thể có liên quan, chống lại bất kỳ một sự xâm phạm nào.

Tại Khoản 1 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ có quy định về các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả như sau:

“1. Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ bao gồm:

a) Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác;”

Như vậy, theo quy định trên thì kịch bản trương trình thuộc dạng tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác. Do đó, chủ thể có quyền được bảo hộ là tổ chức, cá nhân gồm người trực tiếp sáng tạo ra kịch bản chương trình và chủ sở hữu quyền kịch bản chương trình quy định theo pháp luật.

Về đối tượng bảo hộ, kịch bản chương trình phải đáp ứng một số điều kiện như:

  • Tác phẩm được tác giả trực tiếp sáng tạo mà không phải là do sao chép, ăn cắp, sửa đổi, lấy ý tưởng… từ tác phẩm của người khác;
  • Kịch bản chương trình được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam mà chưa được công bố ở bất kỳ nước nào hoặc được công bố đồng thời tại Việt Nam trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày kịch bản chương trình đó được công bố lần đầu tiên ở nước khác.

Giống như quy định tại các điều ước quốc tế song và đa phương, Luật sở hữu trí tuệ cũng quy định bản quyền kịch bản chương trình được mặc nhiên công nhận và bảo hộ sau khi kịch bản được hình thành trên một loại hình vật chất nhất định. Việc đăng ký quyền kịch bản chương trình theo quy định tại điều 49 Luật sở hữu trí tuệ không phải là thủ tục bắt buộc để được hưởng quyền bảo hộ.

Tuy nhiên, việc có Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả đối với bản quyền kịch bản chương trình có ý nghĩa khi xảy ra tranh chấp vì tổ chức, cá nhân có Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả đối với bản quyền kịch bản chương trình sẽ không có nghĩa vụ chứng minh bản quyền thuộc về mình, trừ trường hợp có chứng cứ ngược lại.

Vậy, để đủ điều kiện được pháp luật bảo hộ, kịch bản chương trình cần đáp ứng các điều kiện về đối tượng như trên và phải được định hình trên vật chất nhất định, khi đó kịch bản chương trình mới được bảo hộ theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam.

Tác phẩm báo chí dịch từ tiếng nước ngoài có được bảo hộ quyền tác giả không?

Tại các cơ quan báo chí, biên dịch là công việc diễn ra thường xuyên nhằm chuyển tải tới công chúng các thông tin từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt. Vậy những tác phẩm báo chí đã được biên dịch có được đăng ký bảo hộ quyền tác giả hay không, mời bạn đọc theo dõi bài viết của VCD để tìm hiểu thêm.

1. Tác phẩm báo chí được biên dịch là gì?

Theo cách hiểu thông thường, dịch thuật là việc chuyển thể từ vựng, câu, văn bản… từ một ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Nói một cách học thuật hơn, dịch là quá trình chuyển đổi từ một ngôn ngữ nguồn dạng văn bản hoặc lời nói thành ngôn ngữ đích dạng văn bản hoặc lời nói tương ứng. Có thể nói rằng, tác phẩm báo chí biên dịch là dịch một tác phẩm báo chí từ ngôn ngữ này, sang ngôn ngữ khác với nội dung tương ứng.

Mỗi tác phẩm báo chí đều mang trong mình những ngữ cảnh và văn hóa khác nhau, đòi hỏi người dịch phải có trình độ chuyên môn sâu và có kiến thức về ngôn ngữ cũng như có kiến thức chung về báo chí, nhất là đặc điểm của ngôn ngữ báo chí, phong cách báo chí. Sự linh hoạt và nhạy bén của người làm công tác dịch sẽ giúp cho thông tin đến được với công chúng một cách chuẩn xác, cụ thể và hiệu quả.

Mục đích chính của quá trình dịch thuật là cầu nối giữa các ngôn ngữ khác nhau. Vì vậy, dịch các tác phẩm báo chí từ ngôn ngữ khác sang tiếng Việt để có thể tiếp cận được lượng người đọc lớn hơn, đưa các nền văn hóa khác nhau trên thế giới xích lại gần nhau hơn.

2. Tác phẩm báo chí dịch từ tiếng nước ngoài có được đăng ký bản quyền hay không?

Tác phẩm báo chí dịch từ tiếng nước ngoài là bản được dịch ra một ngôn ngữ khác dựa trên ngôn ngữ gốc của văn bản đó. Theo đó tác phẩm báo chí dịch từ tiếng nước ngoài được coi là một loại tác phẩm phái sinh.

Căn cứ theo Khoản 8 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “8. Tác phẩm phái sinh là tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn”.

Ngoài ra, tại khoản 2 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “2. Tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ theo quy định tại khoản 1 Điều này nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh”.

Tác phẩm báo chí biên dịch được bảo hộ quyền tác giả khi đáp ứng 04 điều kiện sau:

  • Không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm gốc: Theo khoản 2 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh. Các tác phẩm dùng để làm tác phẩm phái sinh bao gồm các phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ.
  • Phải do tác giả làm tác phẩm phái sinh trực tiếp sáng tạo: Khoản 3 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ quy định tác phẩm phái sinh được bảo hộ phải do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác.
  • Được sự cho phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả tác phẩm gốc: Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ quy định tác phẩm phái sinh phải được sự cho phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả tác phẩm gốc. Trong trường hợp không có sự đồng ý của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả sẽ bị xem là hành vi xâm phạm quyền tác giả (Trừ khi tác phẩm phái sinh thuộc các trường hợp tại Điều 25 và Điều 26 Luật Sở hữu trí tuệ).
  • Phải có dấu ấn riêng của tác giả tác phẩm phái sinh: Tác phẩm phái sinh là những tác phẩm được sáng tạo dựa trên tác phẩm gốc. Nên để tác phẩm phái sinh được bảo hộ thì phải có tính sách tạo, mới mẻ và mang dấu ấn của tác giả sáng tạo ra tác phẩm phái sinh đó.

Như vậy, tác phẩm báo chí dịch từ tiếng nước ngoài muốn được bảo hộ quyền tác giả thì không được gây phương hại đến quyền nhân thân và quyền tài sản của văn bản gốc.

Trên đây là bài viết “Tác phẩm báo chí dịch từ tiếng nước ngoài có được bảo hộ quyền tác giả không?”. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Văn bản hành chính có được bảo hộ quyền tác giả không?

Hàng ngày, chúng ta tiếp xúc với rất nhiều văn bản như quyết định của cơ quan nhà nước như quyết định nâng lương, quyết định xử lý luật lao động, thông báo cuộc họp, thư mời cuộc họp… Căn cứ vào nội dung và hình thức của các văn bản đó, ta có thể phân loại nó thành văn bản hành chính. Vậy để tìm hiểu Văn bản hành chính có được bảo hộ quyền tác giả không?, mời bạn đọc theo dõi bài viết của VCD.

1. Văn bản hành chính là gì?

Văn bản pháp luật (VBPL) do những chủ thể có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục và hình thức theo pháp luật quy định, có nội dung là ý chí của nhà nước, mang tính bắt buộc và được đảm bảo bằng quyền lực của nhà nước. Văn bản pháp luật bao gồm ba nhóm văn bản là văn bản quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính. Mỗi nhóm trong hệ thống VBPL còn có một số nét đặc thù về nội dung, tính chất và vai trò trong quản lý nhà nước.

Văn bản hành chính có thể có nhiều loại, thường được chia thành những loại sau:

  • Văn bản thường dùng để truyền đạt những nội dung và yêu cầu nào đó từ cấp trên xuống hoặc bày tỏ những ý kiến, nguyện vọng của cá nhân hay tập thể tới các cơ quan và người có quyền hạn để giải quyết.
  • Văn bản mang tính thông tin quy phạm Nhà nước, cụ thể hóa việc thi hành văn bản pháp quy, giải quyết những vụ việc cụ thể trong khâu quản lý.
  • Văn bản mang tính quy phạm hành chính nhà nước. Văn bản hành chính có nhiều vài trò khác nhau, có thể là thông báo, truyền đạt thông tin từ tổ chức, cá nhân, cơ quan nhà nước này đến một hay nhiều tổ chức, cá nhân khác.
  • Văn bản hành chính cũng có thể dùng để cụ thể hóa những văn bản pháp quy, giải quyết những công việc cụ thể trong quá trình quan lý, điều hành một cơ quan, tổ chức.

2. Văn bản hành chính có được bảo hộ quyền tác giả không?

Theo Điều 15 Luật SHTT quy định văn bản hành chính là một trong các đối tượng không được bảo hộ quyền tác giả, cụ thể:

“Điều 15. Các đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả

1. Tin tức thời sự thuần tuý đưa tin.

2. Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó.

3. Quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số liệu.”

Đối với từng đối tượng trong nhóm này sẽ được cụ thể hóa tại các văn bản có liên quan để có thể dễ dàng áp dụng. Một trong số đó là những văn bản hành chính được quy định chi tiết tại khoản 2 Điều 8 Nghị định 17/2023/NĐ-CP. Theo đó văn bản hành chính này bao gồm văn bản của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp và đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân.

Điều này có thể hiểu bởi những văn bản hành chính chứa đựng những quy tắc xử sự chung, có tính bắt buộc và được áp dụng trong những tổ chức mang tính quyền lực và  một số đối tượng vi phạm về pháp luật hành chính… Bởi vậy, các văn bản hành chính sẽ không thuộc đối tượng được bảo hộ quyền tác giả.

Quyền của người biểu diễn theo quy định tại Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam

Việc truyền tải, đưa tác phẩm đến với công chúng có thể thực hiện bằng nhiều cách nhưng phổ biến nhất là thông qua người biểu diễn. Chủ thể biểu diễn tác phẩm là một chủ thể được pháp luật sở hữu trí tuệ quan tâm và bảo hộ các quyền của họ. Vậy người biểu diễn là ai, họ có những quyền gì? Mời bạn đọc theo dõi bài viết của VCD để biết thêm chi tiết.

1. Người biểu diễn là ai?

Những ai được coi là người biểu diễn được quy định rõ tại điều 3a Công ước quốc tế bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng (Công ước Rome): “Người biểu diễn là các diễn viên, ca sỹ, nhạc công, vũ công và các người khác nhập vai, hát, đọc, ngâm, trình bày, hoặc biểu diễn khác các tác phẩm văn học, nghệ thuật”.

Trên cơ sở khái niệm người biểu diễn của Công ước Rome, Điều 16 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam liệt kê các tổ chức, cá nhân được bảo hộ quyền liên quan theo pháp luật Việt Nam, trong đó quy định trực tiếp người biểu diễn gồm: “Diễn viên, ca sĩ, nhạc công, vũ công và những người khác trình bày tác phẩm văn học, nghệ thuật”.

2. Quyền của người biểu diễn

Khi thỏa mãn các điều kiện theo luật định thì người biểu diễn được hưởng các quyền đối với với cuộc biểu diễn của họ. Theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ, quyền của người biểu diễn gồm có quyền nhân thân và quyền tài sản.

Quyền nhân thân là những quyền người biểu diễn không thể chuyển giao và được bảo hộ vô thời hạn. Theo quy định của Khoản 2 Điều 29 Luật sở hữu trí tuệ quyền nhân thân bao gồm các quyền sau đây:

  • Được giới thiệu tên khi biểu diễn, khi phát hành bản ghi âm, ghi hình, phát sóng cuộc biểu diễn;
  • Bảo vệ sự toàn vẹn hình tượng biểu diễn, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của người biểu diễn.

Nếu người biểu diễn đồng thời là chủ đầu tư thì còn được hưởng các quyền tài sản là độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện các quyền quy định tại Khoản 3 Điều 29 như:

  • Định hình cuộc biểu diễn trực tiếp của mình trên bản ghi âm, ghi hình;
  • Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp cuộc biểu diễn của mình đã được định hình trên bản ghi âm, ghi hình;
  • Phát sóng hoặc truyền theo cách khác đến công chúng cuộc biểu diễn của mình chưa được định hình mà công chúng có thể tiếp cận được, trừ trường hợp cuộc biểu diễn đó nhằm mục đích phát sóng;
  • Phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao cuộc biểu diễn của mình thông qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được.

Đồng thời tại Nghị định 17/2023/NĐ-CP quy định ở Điều 19 về Quyền của người biểu diễn như sau:

“1. Quyền sao chép trực tiếp cuộc biểu diễn đã được định hình trên bản ghi âm, ghi hình theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 29 của Luật Sở hữu trí tuệ là quyền của chủ sở hữu quyền đối với cuộc biểu diễn độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc tạo ra các bản sao khác từ bản ghi âm, ghi hình đó.

2. Quyền sao chép gián tiếp cuộc biểu diễn đã được định hình trên bản ghi âm, ghi hình theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 29 của Luật Sở hữu trí tuệ là quyền của chủ sở hữu quyền đối với cuộc biểu diễn độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc tạo ra các bản sao khác không từ bản ghi âm, ghi hình đó như việc sao chép từ chương trình phát sóng, mạng thông tin điện tử, mạng viễn thông, mạng Internet và các hình thức tương tự khác.

3. Quyền truyền đạt đến công chúng cuộc biểu diễn chưa được định hình theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 29 của Luật Sở hữu trí tuệ là quyền của chủ sở hữu quyền đối với cuộc biểu diễn độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc phổ biến cuộc biểu diễn chưa được định hình đến công chúng bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào ngoài phát sóng.”

Người biểu diễn thông qua việc thực hiện hoặc cho phép thực hiện hay chuyển giao các quyền tài sản để thu các lợi ích kinh tế. Pháp luật quy định tổ chức, cá nhân muốn sử dụng khai thác các quyền này thì phải xin phép và trả thù lao cho chủ sở hữu quyền là hoàn toàn hợp lý

Trên đây là bài viết “Quyền của người biểu diễn theo quy định tại Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Tổ chức phát sóng có những quyền gì đối với quyền liên quan đến quyền tác giả

Tổ chức phát sóng là các tổ chức khởi xướng và thực hiện việc phát sóng bao gồm các tổ chức phát thanh, tổ chức truyền hình và phát tín hiệu vệ tinh. Vậy pháp luật sở hữu trí tuệ quy định về quyền của tổ chức phát sóng như thế nào?

Tổ chức phát sóng là gì?

Tổ chức phát sóng là chủ thể được bảo hộ quyền liên quan theo Khoản 4 Điều 16 Luật SHTT

Tổ chức phát sóng là chủ sở hữu đối với chương trình phát sóng của mình, trừ trường hợp có thoả thuận khác với bên liên quan. Chủ sở hữu chương trình phát sóng là tổ chức phát sóng đầu tư tài chính và cơ sở vật chất – kỹ thuật của mình để phát sóng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Quyền của tổ chức phát sóng

Theo Điều 31 Luật SHTT quy định quyền của tổ chức phát sóng bao gồm:

“1. Tổ chức phát sóng có độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện các quyền sau đây:

a) Phát sóng, tái phát sóng chương trình phát sóng của mình;

b) Phân phối đến công chúng chương trình phát sóng của mình;

c) Định hình chương trình phát sóng của mình;

d) Sao chép bản định hình chương trình phát sóng của mình.

2. Tổ chức phát sóng được hưởng quyền lợi vật chất khi chương trình phát sóng của mình được ghi âm, ghi hình, phân phối đến công chúng.”

Đồng thời, tại Điều 20 Nghị định 17/2023/NĐ-CP quy định về sử dụng chương trình phát sóng như sau:

  • Khi sử dụng các tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình để sản xuất chương trình phát sóng, tổ chức phát sóng phải thực hiện nghĩa vụ với chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan theo quy định của pháp luật.
  • Tổ chức, cá nhân sử dụng chương trình phát sóng của tổ chức phát sóng khác để tái phát sóng hoặc truyền qua cáp, trên mạng thông tin điện tử, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác thực hiện theo thỏa thuận và các quy định pháp luật liên quan. Việc sửa đổi, cắt xén, bổ sung chương trình phát sóng của tổ chức phát sóng khác để tái phát sóng hoặc truyền qua cáp, trên mạng thông tin điện tử, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác phải có sự thỏa thuận với chủ sở hữu quyền đối với chương trình phát sóng.

Vậy, tổ chức phát sóng có độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện phát sóng, phân phối, sao chép, định hình và sao chép chương trình phát sóng của mình. Nếu sử dụng tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình của người khác để sản xuất chương trình hoặc tái phát sóng chương trình của tổ chức khác thì phải thực hiện theo thoả thuận và các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Hơn nữa, việc sửa đổi, bổ sung khi tái phát sóng chương trình của tổ chức khác cần có sự đồng ý của chủ sở hữu quyền đối với chương trình được tái phát sóng.

Trên đây là bài viết “Tổ chức phát sóng có những quyền gì đối với quyền liên quan đến quyền tác giả”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Sao chép tác phẩm như nào để không xâm phạm quyền tác giả

Sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả bị coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả. Theo đó, sao chép là gì và trường hợp nào sao chép tác phẩm được coi là hợp pháp theo quy định của Luật SHTT Việt Nam.

1. Sao chép là gì?

Theo quy định tại khoản 10 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ, Sao chép là việc tạo ra một hoặc nhiều bản sao của tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc tạo bản sao dưới hình thức điện tử.

Đối với tác phẩm chưa được công bố thì chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện sao chép tác phẩm. Trong trường hợp này chỉ có chủ sở hữu quyền tác giả hoặc người được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép mới được sao chép tác phẩm.

Đối với tác phẩm đã được công bố, các tổ chức, cá nhân khác muốn sao chép thì phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao cùng các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả.

2. Trường hợp sao chép tác phẩm không xâm phạm quyền tác giả

Mặc dù sao chép tác phẩm là một trong các quyền tài sản mà khi khai thác, sử dụng thì tổ chức, cá nhân phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả.

Tuy nhiên, pháp luật vẫn quy định một số trường hợp ngoại lệ tại Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ đối với việc sao chép tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao gồm:

  • Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân.
  • Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu

Ngoài ra, Điều 25 Nghị định 17/2023/NĐ-CP cũng hướng dẫn sao chép hợp lý một tác phẩm bằng thiết bị sao chép như sau:

“Điều 25. Sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép

1. Sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại quy định tại các điểm b và e khoản 1 Điều 25 của Luật Sở hữu trí tuệ là hành vi sao chép hợp lý không quá một bản một phần tác phẩm.

2. Thiết bị sao chép quy định tại các điểm a, b và e khoản 1 Điều 25 của Luật Sở hữu trí tuệ là thiết bị có chức năng sao chép với toàn bộ hoặc một phần linh kiện liên quan được tự động hóa trên cơ sở có hoặc không có trả tiền dịch vụ bởi bất kỳ ai không thuộc về tổ chức sở hữu, chiếm hữu hoặc khai thác thương mại thiết bị đó.

3. Đối với tác phẩm được thể hiện dưới dạng chữ viết, hành vi sao chép hợp lý quy định tại khoản 1 Điều này là hành vi sao chép bằng cách photocopy, chụp ảnh hoặc hình thức tương tự khác tối đa không quá 10% tổng số trang hoặc tổng đơn vị lưu trữ (bytes), tổng số từ của ấn bản, độ dài nội dung của ấn bản đối với tác phẩm được cung cấp dưới dạng ấn bản điện tử không chia trang.

Hành vi sao chép hợp lý bằng thiết bị sao chép quy định tại khoản này phải là hành vi độc lập với từng tổ chức, cá nhân thực hiện và nếu có sự lặp lại thì đó là các trường hợp riêng lẻ không liên quan đến nhau trên cùng một tác phẩm.

4. Tổ chức, cá nhân sao chép tác phẩm được thể hiện dưới dạng chữ viết với tỷ lệ phần trăm nhiều hơn mức quy định tại khoản 3 Điều này phải được sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả và trả tiền bản quyền, quyền lợi vật chất khác (nếu có) cho chủ sở hữu quyền tác giả.”

Sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả hoặc không thuộc các trường hợp nêu trên là hành vi xâm phạm quyền tác giả theo quy định tại khoản 6 Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ.

Trên đây là bài viết “Sao chép tác phẩm như nào để không xâm phạm quyền tác giả”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Logo thuộc loại hình tác phẩm nào được bảo hộ quyền tác giả?

Logo được xem là phương tiện gợi nhớ hay dấu ấn của từng doanh nghiệp trong tâm trí người tiêu dùng. Muốn bảo vệ thương hiệu của mình tốt hơn, người chủ doanh nghiệp thường đi đăng ký bảo hộ logo của mình. Vậy, để được bảo hộ quyền tác giả, logo được đăng ký dưới loại hình tác phẩm gì?

1. Định nghĩa Logo

Logo (viết tắt của từ Logotype) hay biểu tượng thương hiệu, là một thiết kế đồ họa, ký hiệu, hoặc biểu tượng (icon) cho một thương hiệu hoặc nhãn hiệu cụ thể nào đó. Đó là một sản phẩm thiết kế trực quan và được cấu thành bởi hình hoặc chữ, đôi khi bao gồm cả chữ và hình. Nhìn chung, logo được xem là một dấu ấn nhận diện của mỗi doanh nghiệp.

Logo không đơn thuần là biểu tượng của một doanh nghiệp mà còn ẩn chứa những thông điệp mà họ muốn chia sẻ đến người dùng. Mỗi logo đều là sự hoà trộn của các bản sắc khác nhau làm nền tảng cho sự phát triển và ghi dấu ấn với mọi người. Logo đóng vai trò quan trọng trong việc nhận diện thương hiệu, nó thường được dùng để gây ấn tượng với người tiêu dùng qua thị giác, giúp phân biệt doanh nghiệp giữa hàng trăm ngàn doanh nghiệp khác.

2. Logo thuộc loại hình tác phẩm nào ?

Từ những đặc điểm của logo, có thể thấy logo hoàn toàn phù hợp với định nghĩa tại Khoản 8 Điều 6 Nghị định 17/2023/NĐ-CP: “tác phẩm được thể hiện bởi đường nét, màu sắc, hình khối, bố cục với tính năng hữu ích, có thể gắn liền với một đồ vật hữu ích, được sản xuất thủ công hoặc công nghiệp bao gồm: Thiết kế đồ họa (hình thức thể hiện của biểu trưng, bộ nhận diện và bao bì sản phẩm; hình thức thể hiện của nhân vật); thiết kế thời trang; thiết kế mang tính mỹ thuật gắn liền với tạo dáng sản phẩm; thiết kế nội thất, trang trí nội thất, ngoại thất mang tính mỹ thuật. Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng được thể hiện dưới dạng tạo dáng sản phẩm mang tính mỹ thuật, không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình trong lĩnh vực tương ứng và không bao gồm tạo dáng bên ngoài của sản phẩm bắt buộc phải có để thực hiện chức năng của sản phẩm.”

Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng là một trong số các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả theo Điểm g Khoản 1 Điều 14 Luật SHTT:

“1. Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ bao gồm:

g) Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng;”

 Để Logo được bảo hộ dưới dạng một tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, cần đáp ứng hai điều kiện sau: 

  • Tác phẩm phải do chính tác giả tạo ra bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác.; 
  • Tác phẩm được thể hiện dưới một hình thức nhất định.

Thời hạn bảo hộ tác phẩm mỹ thuật ứng dụng là 75 năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên; đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn 25 năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là 100 năm, kể từ khi tác phẩm được định hình.

Trên đây là bài viết “Logo thuộc loại hình tác phẩm nào được bảo hộ quyền tác giả?”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Ý tưởng có được bảo hộ quyền tác giả không?

Các tác phẩm sáng tạo được hình thành dựa trên các ý tưởng sáng tạo. Việc bảo hộ các tác phẩm sáng tạo là rất cần thiết trong xã hội hiện nay. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là liệu ý tưởng có được bảo hộ quyền tác giả hay không. Mời bạn đọc theo dõi bài viết “Ý tưởng có được bảo hộ quyền tác giả không?” dưới đây của VCD để biết thêm thông tin.

1. Ý tưởng là gì?

Ý tưởng là một khái niệm trừu tượng, thường được hiểu là suy nghĩ hoặc sáng tạo một khái niệm mới hoặc phương pháp mới để giải quyết một vấn đề nào đó. Ý tưởng thường bắt nguồn từ trí tuệ, kinh nghiệm và kiến thức của con người và có thể được áp dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm khoa học, công nghệ, nghệ thuật, kinh doanh, giáo dục, xã hội và chính trị.

Nhìn chung, ý tưởng là những nội dung thể hiện quan điểm, nghĩ suy diễn ra trong bộ não của một người trước khi họ tiến hành một hành động nào đó. Trong ngữ cảnh của quyền tác giả, ý tưởng có thể là những mong muốn đầu tiên thúc đẩy sự sáng tạo và động lực hoàn thành tác phẩm của tác giả.

2. Ý tưởng có được bảo hộ quyền tác giả hay không?

Tác phẩm sáng tạo để được bảo hộ quyền tác giả cần đáp ứng những tiêu chí sau đây:

  • Tác phẩm phải có tính nguyên gốc. Tính nguyên gốc có nghĩa là tác phẩm phải được hình thành từ sự lao động sáng tạo của chính tác giả, không sao chép toàn bộ hoặc một phần từ tác phẩm khác.
  • Tác phẩm phải được định hình dưới một hình thức vật chất nhất định. Có nghĩa là, tác phẩm sáng tạo phải được thiết kế, hình thành hoàn chỉnh từ nội dung đến hình thức thì mới đạt điều kiện bảo hộ. Nếu tác phẩm chỉ ở dạng suy nghĩ, ý tưởng, chưa được đưa vào thực hiện trên thực tế thì không được bảo hộ.
  • Điều kiện về chủ thể của quyền tác giả: Là tổ chức, cá nhân Việt Nam hay nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam mà chưa được công bố ở bất kỳ nước nào; là tổ chức, cá nhân Việt Nam hay nước ngoài có tác phẩm được công bố đồng thời tại Việt Nam trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày tác phẩm đó được công bố lần đầu tiên ở nước khác; là tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Việt Nam là thành viên.

Tuy rằng, một tác phẩm muốn được hoàn thiện thì đều phải xuất phát từ những ý tưởng của tác giả. Nhưng nếu tác giả chỉ để “tác phẩm” của mình dừng lại ở giai đoạn ý tưởng thì sẽ không đủ cơ sở giúp cơ quan nhà nước xác định được mình có sở hữu “tác phẩm” đó hay không. Nếu muốn được bảo hộ, tác phẩm sáng tạo phải hình thành dưới một hình thức vật chất xác định, bởi lẽ, ý tưởng có thể tương tự nhau nhưng nếu chúng được sáng tạo theo các cách thức khác nhau thì mỗi tác phẩm đều mang dấu ấn riêng biệt.

Nội dung này được khẳng định rõ tại khoản 1 Điều 6 Luật SHTT về căn cứ phát sinh, xác lập quyền tác giả như sau: “Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.” Vậy nên, tác phẩm chỉ được bảo hộ quyền tác giả đối với hình thức thể hiện ý tưởng dưới một hình thức sáng tạo nhất định và sẽ không bảo hộ quyền tác giả đối với riêng bản thân ý tưởng.

Trên đây là bài viết “Ý tưởng có được bảo hộ quyền tác giả không?”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,