Skip to main content

Tác giả: Biên Tập Viên

Xác định thiệt hại do xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan

Khi bị xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan, việc xác định thiệt hại xảy ra không phải là một vấn đề dễ dàng. Vậy, thiệt hại xảy ra khi quyền tác giả, quyền liên quan bị xâm phạm được xác định như thế nào? Đây là một trong những nội dung được hướng dẫn tại Nghị định 17/2023/NĐ-CP ngày 26/4/2023 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan.

1. Nguyên tắc chung

Theo Điều 204 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan bao gồm:

  • Thiệt hại về vật chất bao gồm các tổn thất về tài sản, mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh doanh, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại;
  • Thiệt hại về tinh thần bao gồm các tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng và những tổn thất khác về tinh thần gây ra cho tác giả của tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; người biểu diễn.

Nguyên tắc xác định thiệt hại do xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan được quy định tại Điều 69 Nghị định 17/2023/NĐ-CP, cụ thể như sau:

  • Thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan quy là sự tổn thất thực tế về vật chất và tinh thần do hành vi xâm phạm trực tiếp gây ra cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan.
  • Được coi là có tổn thất thực tế nếu có đủ các căn cứ sau đây:
    • Lợi ích vật chất hoặc tinh thần là có thực và thuộc về người bị thiệt hại: Lợi ích vật chất hoặc tinh thần là kết quả (sản phẩm) của quyền tác giả, quyền liên quan và người bị thiệt hại là người có quyền hưởng lợi ích vật chất hoặc tinh thần đó;
    • Người bị thiệt hại có khả năng đạt được lợi ích nêu trên trong điều kiện nhất định nếu không có hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan xảy ra;
    • Có sự giảm sút hoặc mất lợi ích của người bị thiệt hại sau khi hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan xảy ra so với khả năng đạt được lợi ích đó khi không có hành vi xâm phạm và hành vi xâm phạm là nguyên nhân trực tiếp gây ra sự giảm sút, mất lợi ích đó.

Trong đó, mức độ thiệt hại được xác định trên cơ sở các tổn thất thực tế mà chủ thể quyền sở hữu trí tuệ phải chịu do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây ra. Mức độ thiệt hại được xác định phải phù hợp với yếu tố xâm phạm quyền đối với đối tượng quyền tác giả, quyền liên quan, phải dựa trên chứng cứ về thiệt hại do các bên cung cấp, kể cả kết quả giám định và bản kê khai thiệt hại, trong đó làm rõ các căn cứ để xác định và tính toán mức độ thiệt hại.

2. Xác định thiệt hại cụ thể do xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan

2.1.Thiệt hại về tinh thần

Các thiệt hại cụ thể bao gồm bị tổn hại về danh dự, nhân phẩm, bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, uy tín, danh tiếng, lòng tin vì bị hiểu nhầm, thời gian chịu đựng tổn thất, mức độ đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm và đến mức cá nhân, tổ chức vi phạm phải xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại về mặt tinh thần.

2.2.Thiệt hại về tài sản

Thiệt hại về tài sản được xác định theo mức độ giảm sút hoặc bị mất về giá trị tính được thành tiền của đối tượng quyền tác giả, quyền liên quan được bảo hộ. Các giá trị đó được xác định như sau:

  • Giá chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc giá chuyển giao quyền sử dụng đối tượng quyền tác giả, quyền liên quan;
  • Giá trị góp vốn kinh doanh bằng quyền tác giả, quyền liên quan;
  • Giá trị quyền tác giả, quyền liên quan trong tổng số tài sản của doanh nghiệp;
  • Giá trị đầu tư cho việc nghiên cứu, sáng tạo và phát triển để tạo ra tác phẩm, đối tượng quyền liên quan, bao gồm các chi phí đầu tư, nghiên cứu, trang thiết bị kỹ thuật, cơ sở vật chất, chi phí tiếp thị, quảng cáo, lao động, thuế và các chi phí khác.

Việc xác định giá trị tính được thành tiền của đối tượng quyền tác giả, quyền liên quan do doanh nghiệp thẩm định giá thực hiện theo quy định của pháp luật về thẩm định giá. Kết quả thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá được sử dụng làm một trong những cơ sở để tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, quyết định hoặc phê duyệt giá của tài sản thẩm định giá.

 2.3. Giảm sút về thu nhập, lợi nhuận

Các loại thu nhập, lợi nhuận được xem xét bao gồm:

  • Thu nhập, lợi nhuận thu được do trực tiếp, gián tiếp khai thác, sử dụng đối tượng quyền tác giả, quyền liên quan;
  • Thu nhập, lợi nhuận thu được do cho thuê đối tượng quyền tác giả, quyền liên quan là bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính;
  • Thu nhập, lợi nhuận thu được do chuyển giao quyền sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan;
  • Thu nhập, lợi nhuận thu được do chuyển nhượng quyền sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan.

Mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận được xác định theo một hoặc các căn cứ sau đây:

  • Ảnh hưởng đến khai thác bình thường tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng: So sánh số lượng bản sao thực tế tiêu thụ hoặc cung ứng trước và sau khi xảy ra hành vi xâm phạm; so sánh tần suất khai thác, sử dụng, công chiếu, phát sóng, truyền đạt, truy cập tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng trước và sau khi xảy ra hành vi xâm phạm; so sánh số lượng khách hàng sử dụng, thuê bao trước và sau khi xảy ra hành vi xâm phạm;
  •  So sánh giá bán thực tế trên thị trường của bản sao trước và sau khi xảy ra hành vi xâm phạm;
  • Gây thiệt hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của chủ thể quyền: So sánh trực tiếp doanh thu có được từ việc khai thác, sử dụng đối tượng quyền tác giả, quyền liên quan trước và sau khi xảy ra hành vi xâm phạm, tương ứng với từng loại thu nhập quy định tại khoản 1 Điều này.

 2.4. Tổn thất về cơ hội kinh doanh

Cơ hội kinh doanh bị tổn thất được hiểu là:

  • Khả năng phát sinh lợi nhuận, gia tăng giá trị thương hiệu thông qua thực tế sử dụng, khai thác trực tiếp đối tượng quyền tác giả, quyền liên quan trong kinh doanh; số lượng khách hàng sử dụng;
  • Khả năng phát sinh lợi nhuận, gia tăng giá trị thương hiệu thông qua quảng cáo, tiếp thị có sử dụng đối tượng quyền tác giả, quyền liên quan;
  •  Khả năng phát sinh lợi nhuận, gia tăng giá trị thương hiệu thông qua việc cho người khác thuê đối tượng quyền tác giả, quyền liên quan là bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính, bản ghi âm, ghi hình;
  •  Khả năng phát sinh lợi nhuận, gia tăng giá trị thương hiệu thông qua thực tế chuyển giao quyền sử dụng đối tượng quyền tác giả, quyền liên quan, chuyển nhượng đối tượng quyền tác giả, quyền liên quan cho người khác;
  •  Cơ hội kinh doanh khác bị mất do hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan trực tiếp gây ra.

Tổn thất về cơ hội kinh doanh là thiệt hại về giá trị tính được thành tiền của khoản thu nhập đáng lẽ người bị thiệt hại có thể có được khi thực hiện các khả năng nêu trên nhưng thực tế không có được khoản thu nhập đó do hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan gây ra.

2.5. Chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại

Chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại gồm chi phí cho việc tạm giữ, bảo quản, lưu kho, lưu bãi đối với hàng hóa xâm phạm, chi phí thực hiện các biện pháp khẩn cấp tạm thời, chi phí hợp lý để thuê luật sư, chi phí hợp lý để thuê dịch vụ giám định, ngăn chặn, khắc phục hành vi xâm phạm và chi phí cho việc thông báo, cải chính trên phương tiện thông tin đại chúng liên quan đến hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan.

Trên đây là bài viết “Xác định thiệt hại do xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan”. Mong bài viết này có ích đối với quý vị.

Trân trọng,

Nguyên tắc sử dụng hợp lý – “fair use” trong pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam

Nguyên tắc sử dụng hợp lý (tên tiếng anh là “fair use”) là một nguyên tắc được gọi tên theo một học thuyết của Hoa Kỳ về những giới hạn và ngoại lệ được phép sử dụng bản sao tác phẩm mà không bị coi là xâm phạm quyền tác giả. Những công ước, hiệp định quốc tế cũng đã đề cập đến những trường hợp giới hạn và ngoại lệ này, tiêu biểu là công ước Berne với “phép thử ba bước” mà Việt Nam là thành viên. Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam sửa đổi năm 2022 đã tiếp thu và áp dụng những quy định của pháp luật quốc tế và lần đầu tiên quy định những trường hợp ngoại lệ và giới hạn quyền tác giả.

1. Nguyên tắc sử dụng hợp lý trong pháp luật quốc tế

Theo Điều 9.2 Công ước Berne bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật có quy định: “Luật pháp quốc gia thành viên Liên hiệp, trong một vài trường hợp đặc biệt, có quyền cho phép sao in những tác phẩm nói trên, miễn là sự sao in đó không phương hại đến việc khai thác bình thường tác phẩm hoặc không gây ảnh hưởng bất hợp lý đến những quyền lợi hợp pháp của tác giả”. Quy định này được hiểu rằng việc sao chép tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả sẽ không bị coi là hành vi xâm phạm quyền độc quyền sao chép của tác giả nếu hành vi đó:

  • Thuộc các trường hợp ngoại lệ đặc biệt mà được quy định bởi pháp luật quốc gia;
  • Không phương hại việc khai thác bình thường tác phẩm;
  • Không gây tổn hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả.

Bên cạnh đó, Điều 13 Hiệp định TRIPS 1994 cũng quy định: “Nước thành viên phải xác định các giới hạn hoặc ngoại lệ đối với độc quyền đối với một số trường hợp đặc biệt mà các trường hợp đó không được xung đột với việc khai thác bình thường tác phẩm và cũng không gây tổn hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả”. Hiệp ước WIPO 1996 cũng quy định nội dung tương tự trong Điều 10[1].

Điều 107 Luật Bản quyền Hoa Kỳ có tên gọi là “Hạn chế về độc quyền: Sử dụng hợp lý”
(Limitations on exclusive rights: Fair use).  Theo đó, việc sử dụng hợp pháp tác phẩm có bản quyền, bao gồm cả việc sử dụng bằng cách sao chép dưới dạng bản sao hoặc bản ghi âm hoặc bằng bất kỳ phương tiện nào khác được chỉ định bởi phần đó, cho các mục đích như phê bình, bình luận, đưa tin, giảng dạy (bao gồm nhiều bản sao để sử dụng trong lớp học), học bổng hoặc nghiên cứu, không phải là hành vi vi phạm bản quyền, tuy nhiên phải đáp ứng 04 điều kiện: (i) Mục đích và tính chất của hành vi sử dụng, xem xét đến việc sử dụng có tính chất thương mại hay cho việc mục đích giáo dục phi lợi nhuận (ii) Bản chất của phần tác phẩm được sử dụng; (iii) Số lượng và bản chất của phần tác phẩm được trích dẫn trên tổng thể; (iv)Tác động của việc sử dụng tác phẩm đến thị trường tiềm năng và giá trị của tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả[2].

2. Nguyên tắc sử dụng hợp lý trong pháp luật Việt Nam

Việt Nam đã tiếp thu và thực hiện nội luật hóa quy định về “sử dụng hợp lý” tại các cam kết quốc tế. Cụ thể, Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi năm 2022 đã quy định tại Điều 25 và Điều 32, lấy tên lần lượt là các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả và quyền liên quan, trong đó nêu rõ các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền bản quyền nhưng phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm, thông tin về cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng. Đồng thời, điều luật cũng quy định các trường hợp sử dụng đó không được mâu thuẫn với việc khai thác bình thường tác phẩm và không gây thiệt hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả. Các trường hợp được coi là sử dụng hợp lý mà không xâm phạm quyền tác giả bao gồm:

  • Tự sao chép một bản để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại. Quy định này không áp dụng trong trường hợp sao chép bằng thiết bị sao chép;
  • Sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại;
  • Sử dụng hợp lý tác phẩm để minh họa trong bài giảng, ấn phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng nhằm mục đích giảng dạy. Việc sử dụng này có thể bao gồm việc cung cấp trong mạng máy tính nội bộ với điều kiện phải có các biện pháp kỹ thuật để bảo đảm chỉ người học và người dạy trong buổi học đó có thể tiếp cận tác phẩm này;
  • Sử dụng tác phẩm trong hoạt động công vụ của cơ quan nhà nước;
  • Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận, giới thiệu hoặc minh họa trong tác phẩm của mình; để viết báo, sử dụng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát sóng, phim tài liệu;
  • Sử dụng tác phẩm trong hoạt động thư viện không nhằm mục đích thương mại, bao gồm sao chép tác phẩm lưu trữ trong thư viện để bảo quản, với điều kiện bản sao này phải được đánh dấu là bản sao lưu trữ và giới hạn đối tượng tiếp cận theo quy định của pháp luật về thư viện, lưu trữ; sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép cho người khác phục vụ nghiên cứu, học tập; sao chép hoặc truyền tác phẩm được lưu giữ để sử dụng liên thông thư viện thông qua mạng máy tính, với điều kiện số lượng người đọc tại cùng một thời điểm không vượt quá số lượng bản sao của tác phẩm do các thư viện nói trên nắm giữ, trừ trường hợp được chủ sở hữu quyền cho phép và không áp dụng trong trường hợp tác phẩm đã được cung cấp trên thị trường dưới dạng kỹ thuật số;
  • Biểu diễn tác phẩm sân khấu, âm nhạc, múa và các loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hóa, hoạt động tuyên truyền cổ động không nhằm mục đích thương mại;
  • Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm mỹ thuật, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó, không nhằm mục đích thương mại;
  • Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng cá nhân, không nhằm mục đích thương mại;
  • Sao chép bằng cách đăng tải lại trên báo, ấn phẩm định kỳ, phát sóng hoặc các hình thức truyền thông khác tới công chúng bài giảng, bài phát biểu, bài nói khác được trình bày trước công chúng trong phạm vi phù hợp với mục đích thông tin thời sự, trừ trường hợp tác giả tuyên bố giữ bản quyền;
  • Chụp ảnh, ghi âm, ghi hình, phát sóng sự kiện nhằm mục đích đưa tin thời sự, trong đó có sử dụng tác phẩm được nghe thấy, nhìn thấy trong sự kiện đó;
  • Người khuyết tật nhìn, người khuyết tật không có khả năng đọc chữ in và người khuyết tật khác không có khả năng tiếp cận tác phẩm để đọc theo cách thông thường (sau đây gọi là người khuyết tật), người nuôi dưỡng, chăm sóc cho người khuyết tật, tổ chức đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ sử dụng tác phẩm.
  • Ghi âm, ghi hình trực tiếp một phần cuộc biểu diễn để giảng dạy không nhằm mục đích thương mại hoặc để đưa tin thời sự;
  • Tự sao chép hoặc hỗ trợ người khuyết tật sao chép một phần cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại;
  • Sao chép hợp lý một phần cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng để giảng dạy trực tiếp của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại, trừ trường hợp cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng này đã được công bố để giảng dạy;
  • Trích dẫn hợp lý nhằm mục đích đưa tin thời sự;
  • Tổ chức phát sóng tự làm bản sao tạm thời để phát sóng khi được hưởng quyền phát sóng.

Trên đây là bài viết “Nguyên tắc sử dụng hợp lý – “fair use” trong pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,


[1] Điều 10. Hạn chế và ngoại lệ

(1) Các Bên ký kết có thể quy định trong pháp luật nước mình những hạn chế và ngoại lệ đối với các quyền dành cho tác giả tác phẩm văn học và nghệ thuật theo Hiệp ước này trong những trường hợp đặc biệt cụ thể, không mâu thuẫn với việc khai thác bình thường tác phẩm và không làm phương hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả.

(2) Khi áp dụng Công ước Berne, các Bên ký kết phải xác định rõ các hạn chế hoặc ngoại lệ đối với các quyền được quy định trong những trường hợp đặc biệt cụ thể mà không mâu thuẫn với việc khai thác bình thường tác phẩm và không làm phương hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả.

[2] https://www.law.cornell.edu/uscode/text/17/107

Slogan, tagline của thương hiệu có được bảo hộ quyền tác giả không?

Những khẩu hiệu kinh doanh (slogan, tagline) là một trong những cách gây ấn tượng, thu hút người tiêu dùng, đồng thời cũng là dấu hiệu để người tiêu dùng dễ dàng nhận biết thương hiệu. Ví dụ, câu khẩu hiệu của hãng giày Nike là “Just do it”, của Disneyland là “ When dreams come true” và của CocaCola là “open happiness”,…Bản thân những khẩu hiệu kinh doanh thường thấy là những cụm từ hoặc câu rất đơn giản nhưng lại gây ấn tượng và mang lại hiệu quả không nhỏ trong kinh doanh. Vậy liệu những Slogan, tagline của thương hiệu có được bảo hộ quyền tác giả không?

1. Slogan và tagline là gì?

Slogan và tagline đều là những cụm từ hoặc câu ngắn gây ấn tượng, được các thương hiệu sử dụng để người tiêu dùng có thể dễ dàng nhận biết, phân biệt thương hiệu và sản phẩm của thương hiệu đó với các thương hiệu khác.

Slogan là cụm từ hoặc câu ngắn, ấn tượng và hấp dẫn, thường được sử dụng để truyền tải giá trị của sản phẩm và tinh thần của thương hiệu trong chiến dịch quảng cáo. Slogan thường gắn với những sản phẩm nhất định và có thời gian xuất hiện ngắn hạn. Slogan có thể được thay đổi khi thương hiệu ra mắt sản phẩm mới hoặc thực hiện một chiến dịch quảng cáo mới.  

Tagline là một cụm từ hoặc một câu ngắn gọn được sử dụng để tuyền tải giá trị của một thương hiệu, giúp tạo ấn tượng lâu dài với người tiêu dùng và nâng cao nhận thức về tổng thể thương hiệu. Tagline được lồng ghép và giúp thể hiện giá trị cốt lõi của thương hiệu, tầm nhìn cũng như sứ mệnh lâu dài của thương hiệu đó. Tagline luôn song hành với hình ảnh của thương hiệu, được sử dụng lâu dài và hầu như không thay đổi trong thời gian thương hiệu hoạt động. Tagline thường ngắn gọn hơn slogan.

Để có thể có những câu slogan, tagline gây ấn tượng mạnh, có hiệu quả cao, những người sáng tạo đều phải trải qua quá trình suy nghĩ, sáng tạo và nghiên cứu kĩ lưỡng. Tuy nhiên, sản phẩm tạo ra là một câu khẩu hiệu, dưới góc độ sở hữu trí tuệ, việc câu khẩu hiệu này có được bảo hộ quyền tác giả hay không còn phụ thuộc vào hình thức thể hiện của câu khẩu hiệu đó.

2. Slogan, tagline của thương hiệu có được bảo hộ quyền tác giả không?

Theo Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ, các đối tượng được bảo hộ quyền tác giả là những tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học, bao gồm:

  • Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác;
  • Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác;
  • Tác phẩm báo chí;
  • Tác phẩm âm nhạc;
  • Tác phẩm sân khấu;
  • Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự (sau đây gọi chung là tác phẩm điện ảnh);
  • Tác phẩm mỹ thuật; mỹ thuật ứng dụng;
  • Tác phẩm nhiếp ảnh;
  • Tác phẩm kiến trúc;
  • Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình khoa học;
  • Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian;
  • Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.

Các slogan, tagline thường chỉ là những cụm từ hoặc câu ngắn, có thể được định hình dưới dạng viết, hoặc trên logo thiết kế đồ họa, hoặc bản ghi âm quảng cáo. Tuy nhiên, nếu câu slogan, tagline được định hình dưới dạng viết, tách riêng khỏi logo của thương hiệu thì không được coi là một tác phẩm viết, không thuộc một trong các đối tượng được bảo hộ quyền tác giả nêu trên. Bởi khi tách riêng ra khỏi thương hiệu, cụm từ hoặc câu khẩu hiệu đó hoàn toàn là một câu nói đời thường, không truyền tải được ý nghĩa mà thương hiệu muốn gửi gắm, không đảm bảo tính sáng tạo của tác phẩm. Khi đó, các câu khẩu hiệu kinh doanh như slogan, tagline không được bảo hộ quyền tác giả.

Bên cạnh đó, nếu như câu slogan, tagline được thiết kế đi kèm với logo của thương hiệu thì phần thiết kế đó được coi như là một phần của logo và có thể được bảo vệ quyền tác giả dưới danh nghĩa tác phẩm mỹ thuật ứng dụng. Mặt khác, nếu slogan, tagline được định hình dưới dạng bản ghi âm thì bản ghi âm đó sẽ được bảo hộ quyền liên quan. Mặc dù vậy, các doanh nghiệp cần lưu ý rằng quyền tác giả chỉ bảo hộ hình thức thể hiện mà không bảo hộ nội dung, do đó trong hai trường hợp này, việc sở hữu quyền tác giả đối với logo thương hiệu và bản ghi âm chứa slogan, tagline sẽ chỉ ngăn những người khác sao chép, sử dụng hai đối tượng này mà không ngăn cản người khác bắt chước slogan, tagline đó để sử dụng cho thương hiệu của họ.

Vậy, slogan và tagline không thể được bảo hộ nếu được thể hiện dưới dạng chữ viết thông thường. Chỉ khi slogan, tagline được thiết kế gắn liền với logo thương hiệu, hoặc được thể hiện dưới dạng bản ghi âm thì sẽ được bảo hộ quyền tác giả đối với hình thức thể hiện tác phẩm tương ứng.

Trên đây là bài viết “Slogan, tagline của thương hiệu có được bảo hộ quyền tác giả không?”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Lấy sách của người khác làm sách điện tử (ebook) và chia sẻ lên mạng internet có xâm phạm quyền tác giả không ?

Thay vì những cuốn sách giấy truyền thống, trong thời đại thông tin bùng nổ, việc sử dụng sách điện tử (ebook) khiến con người thuận tiện hơn trong việc đọc, mang theo bên người và lưu trữ sách. Tuy nhiên, sách điện tử cũng phải đối mặt nguy cơ bị xâm phạm bản quyền vô cùng cao, nhiều trường hợp sách giấy đã bị sao chép, làm thành sách điện tử và phát tán bất hợp pháp trên mạng, gây thiệt hại cho tác giả và các nhà xuất bản. Có thể khẳng định rằng, hành vi Lấy sách của người khác làm sách điện tử (ebook) và chia sẻ lên mạng internet có xâm phạm quyền tác giả

1. Sách điện tử là gì?

Sách điện tử là những cuốn sách được xuất bản dưới dạng số hóa, tồn tại dưới dạng một file điện tử (tệp tin số), được sử dụng thông qua các thiết bị điện tử cá nhân như máy tính, điện thoại thông minh, máy tính bảng, máy đọc sách.  Sách điện tử được phát hành trên môi trường mạng internet, người đọc sẽ thực hiện mua sách tại các cửa hàng trực tuyến và có thể tải sách về và đọc ngay trên thiết bị cá nhân của mình, kể cả khi kết nối mạng và khi không có kết nối mạng. 

Sách điện tử thường được định dạng dưới các dạng như EPUB, PDF, MOBI, AZW, TXT,…là các loại định dạng khiến người khác không chỉnh sửa được nội dung sách. Tuy không thể chỉnh sửa được nội dung nhưng sách điện tử được thiết kế để người đọc có thể tùy chọn hình thức đọc (khổ ngang- dọc, kiểu chữ, cỡ chữ,…) và tương thích với các loại màn hình có kích thước khác nhau.

Hiện nay, sách điện tử được ưa chuộng bởi những lí do như tiết kiệm không gian lưu trữ, tiết kiệm chi phí do giá thành thường rẻ hơn sách giấy, có thể mua một cách nhanh chóng mà không cần trực tiếp tới cửa hàng, dễ mang theo khi di chuyển.

2. Hành vi sử dụng sách của người khác để làm sách điện tử (ebook) và chia sẻ lên mạng internet là hành vi xâm phạm quyền tác giả

Trên thực tế, các nhà xuất bản ngoài việc phải đối mặt với sách in lậu còn phải đối mặt với việc ebook bị làm “lậu” và phát tán tràn lan trên mạng. Đã có nhiều cá nhân sử dụng sách gốc của người khác đã xuất bản để làm ebook và chia sẻ lên mạng internet, kể cả chia sẻ miễn phí hay bán lại với giá rẻ, xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu quyền tác giả đối với những cuốn sách đó.  

Theo Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ, quyền sao chép tác phẩm, quyền phân phối, truyền đạt tác phẩm đến công chúng là một số quyền nằm trong những quyền tài sản của chủ sở hữu quyền tác giả. Chủ sở hữu quyền tác giả có thể độc quyền thực hiện hoặc cho phép tổ chức, cá nhân khác thực hiện các quyền nêu trên, đồng thời tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền nêu trên phải được sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả và trả tiền bản quyền, các quyền lợi vật chất khác (nếu có) cho chủ sở hữu quyền tác giả.

Bên cạnh đó, theo Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ, hành vi xâm phạm các quyền tài sản của tác giả, bao gồm các quyền sao chép, phân phối, truyền đạt tác phẩm,…đều được xác định là hành vi xâm phạm quyền tác giả. Hành vi sử dụng sách gốc của người khác đã xuất bản để làm ebook và chia sẻ lên mạng internet đã xâm phạm tới quyền sao chép, quyền phân phối và truyền đạt tác phẩm thuộc về chủ sở hữu quyền tác giả.

Hành vi nêu trên có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định 131/2013/NĐ -CP như sau:

  • Hành vi xâm phạm quyền phân phối tác phẩm (Điều 15):  Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc dỡ bỏ bản sao tác phẩm vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường mạng và kỹ thuật số hoặc buộc tiêu hủy tang vật vi phạm.
  • Hành vi xâm phạm quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng (Điều 17): Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc dỡ bỏ bản sao tác phẩm vi phạm.
  • Hành vi xâm phạm quyền sao chép tác phẩm (Điều 18): Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc dỡ bỏ bản sao tác phẩm vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường mạng và kỹ thuật số hoặc buộc tiêu hủy tang vật vi phạm.

Vì những lí do trên, những cá nhân, tổ chức nếu muốn sử dụng một cuốn sách để làm sách điện tử thì phải xin phép và trả tiền bản quyền cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả của cuốn sách đó. Nếu không thực hiện, người đó sẽ có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo mức phạt nêu trên.

Trên đây là bài viết “Lấy sách của người khác làm sách điện tử (ebook) và chia sẻ lên mạng internet có xâm phạm quyền tác giả không?”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Quyền tác giả đối với sưu tập dữ liệu

Sưu tập dữ liệu là một trong các đối tượng được bảo hộ quyền tác giả theo quy định của các Công ước quốc tế và pháp luật Việt Nam. Ví dụ, một người đã sưu tầm những câu ca dao, thành ngữ, tục ngữ khắp mọi miền đất nước và sắp xếp chúng theo từng chủ đề, tập hợp thành một cuốn sách lấy tên “Ca dao, thành ngữ, tục ngữ Việt Nam” thì cuốn sách đó được bảo hộ dưới loại hình sưu tập dữ liệu. Để tìm hiểu rõ hơn về việc sưu tập dữ liệu được bảo hộ quyền tác giả như thế nào tại Việt Nam, chúng tôi xin giới thiệu bài viết “Quyền tác giả đối với sưu tập dữ liệu” tới quý độc giả.

1.Quy định về bảo hộ sưu tập dữ liệu theo một số Công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ

Các Công ước quốc tế quan trọng về quyền tác giả, bao gồm Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật (sửa đổi năm 1971), Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) năm 1994 và Hiệp ước của WIPO về quyền tác giả (WCT) năm 1996 đều công nhận bảo hộ quyền tác giả đối với sưu tập dữ liệu.

Tại Khoản 5 Điều 2 Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật, sưu tập dữ liệu được quy định như sau: “Các tuyển tập, các tác phẩm văn học hoặc tác phẩm nghệ thuật, ví dụ như bộ Bách khoa từ điển và các hợp tuyển mà việc tuyển chọn hoặc sắp xếp nội dung là thành quả của hoạt động trí tuệ, đều phải được bảo hộ như nó vốn có, miễn không phương hại quyền tác giả của các tác phẩm tạo nên các tuyển tập này”.

Bên cạnh đó, Điều 10 Khoản 2 của Hiệp định TRIPS về các khía cạnh liên quan đến thương mại của Quyền sở hữu trí tuệ năm 1994  quy định: “Các sưu tập dữ liệu hoặc tư liệu khác, dù dưới dạng đọc được bằng máy hay dưới dạng khác, mà việc tuyển chọn hoặc sắp xếp nội dung là thành quả của hoạt động trí tuệ đều phải được bảo hộ như nó vốn có. Việc bảo hộ nói trên, với phạm vi không bao hàm chính các dữ liệu hoặc tư liệu đó, không được làm ảnh hưởng tới bản quyền đang tồn tại đối với chính dữ liệu hoặc tư liệu đó”.

Ngoài ra, Hiệp ước của WIPO về quyền tác giả (1996) cũng đề cập tới việc bảo hộ sưu tập dữ liệu tại Điều 5, cụ thể là: “Các dữ liệu hoặc tư liệu khác được sưu tập dưới bất kỳ hình thức nào, mà tạo nên những sáng tạo trí tuệ, thì được bảo hộ. Sự bảo hộ này không dành cho chính bản thân dữ liệu hoặc tư liệu đó và không làm phương hại đến bất kỳ quyền tác giả nào đang tồn tại đối với dữ liệu hoặc tư liệu trong sưu tập đó”.

Việt Nam đã là thành viên của các công ước nêu trên và đã nội luật hóa các quy định nêu trên trong Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam.

2.Quy định về bảo hộ sưu tập dữ liệu theo pháp luật Việt Nam

Sưu tập dữ liệu là một trong các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả, được ghi nhận tại Điểm m Khoản 1 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ.

Theo Điều 22 Khoản 2 Luật Sở hữu trí tuệ, sưu tập dữ liệu là “tập hợp có tính sáng tạo thể hiện ở sự tuyển chọn, sắp xếp các tư liệu dưới dạng điện tử hoặc dạng khác.” Ví dụ, một người có thể tập hợp và xuất bản các truyện ngắn của bản thân, lấy tên là “Tuyển tập truyện ngắn của tác giả A”; hoặc một người có thể sưu tầm ảnh phong cảnh mây vùng Tây Bắc của nhiều tác giả khác nhau và tạo thành một tuyển tập ảnh có tên “Mây Tây Bắc”. Hiện nay, các cơ sở dữ liệu điện tử cũng được bảo hộ quyền tác giả dưới dạng sưu tập dữ liệu. Tác giả của sưu tập dữ liệu có thể là tác giả hoặc không phải là tác giả của các tư liệu thuộc sưu tập dữ liệu đó, mà chỉ là người sưu tầm, sắp xếp các tư liệu có được theo một thứ tự nhất định.  

Tác giả của sưu tập dữ liệu sẽ có đủ quyền nhân thân và quyền tài sản đối với sưu tập dữ liệu đó, cụ thể:

  • Đặt tên cho tác phẩm sưu tập dữ liệu;
  • Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm sưu tập dữ liệu; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;
  • Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm sưu tập dữ liệu;
  • Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm sưu tập dữ liệu, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
  • Làm tác phẩm phái sinh;
  • Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp toàn bộ hoặc một phần tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào;
  • Phân phối đến công chúng bản gốc, bản sao tác phẩm;
  • Phát sóng, truyền đạt đến công chúng tác phẩm;

Bên cạnh đó, Điều 22 Khoản 2 Luật Sở hữu trí tuệ cũng quy định việc bảo hộ quyền tác giả đối với sưu tập dữ liệu không bao hàm chính các tư liệu đó, không gây phương hại đến quyền tác giả của chính tư liệu đó. Do đó, có thể hiểu rằng quyền tác giả đối với sưu tập dữ liệu và quyền tác giả đối với các tư liệu thuộc sưu tập dữ liệu là độc lập với nhau, bên cạnh đó việc thự hiện, hình thành tác phẩm sưu tập dữ liệu không được làm phương hại đến quyền tác giả của các tư liệu trong tác phẩm sưu tập dữ liệu.

Trên đây là bài viết “Quyền tác giả đối với sưu tập dữ liệu”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng

Phân biệt “xâm phạm quyền tác giả” và “đạo văn”

Hành vi đạo văn nói chung là một hành vi không được chấp nhận trong xã hội, là hành vi lấy công sức, thành quả của người khác làm thành tác phẩm của mình. Hành vi xâm phạm quyền tác giả là hành vi sao chép, sử dụng tác phẩm mà không xin phép, không trả tiền bản quyền cho tác giả theo quy định của luật. Vậy, liệu đạo văn có phải là xâm phạm quyền tác giả hay không, và phân biệt hai hành vi này như thế nào?

“Đạo văn” không phải là một khái niệm trong pháp luật, nói cách khác, pháp luật Việt Nam hiện nay không có những quy định cụ thể, rõ ràng để định nghĩa hay giải thích về vấn đề đạo văn. Đạo văn là vấn đề được xem xét dưới góc độ đạo đức, còn xâm phạm quyền tác giả là một vấn đề pháp lý, được quy định rõ ràng ở trong luật.

Đạo văn là hành động sao chép tác phẩm hoặc sử dụng ý tưởng, phương pháp trong tác phẩm của người khác và đưa vào trong tác phẩm của mình, thể hiện chúng như tác phẩm gốc của chính mình. Trong môi trường học thuật, đạo văn là hành vi vi phạm quy tắc đạo đức học thuật nghiêm trọng. Hành vi đạo văn có thể do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý. Một số hành vi đạo văn thường thấy có thể kể đến như là:

  • Trích dẫn không đúng cách các tài liệu nguồn;
  • Lấy tác phẩm của người khách và xem như là của mình, bao gồm cả việc lấy từ việc dịch tác phẩm nước ngoài;
  • Diễn giải lại tác phẩm của người khác bằng cách thay đổi một số từ ngữ, thay đổi thứ tự các câu, hoặc bám sát cấu trúc lập luận của họ để tạo thành tác phẩm của mình;
  • Tự đạo văn của chính mình (ví dụ, gửi đồng thời tác phẩm của mình tới nhiều tòa soạn, hoặc sử dụng mà không trích dẫn rõ ràng đối với bài viết đã được xuất bản trước đây của chính mình).

Hành vi xâm phạm quyền tác giả là những hành vi được quy định rõ tại Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ. Những hành vi xâm phạm thường thấy như là: sao chép tác phẩm; làm tác phẩm phái sinh; biểu diễn tác phẩm; phát sóng, phân phối, truyền đạt đến công chúng tác phẩm;…mà không xin phép, không trả tiền bản quyền cho tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả. Người thực hiện những hành vi xâm phạm quyền tác giả phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, cụ thể là chịu các chế tài hành chính hoặc hình sự, tùy theo mức độ nghiêm trọng của hành vi vi phạm.

Giữa đạo văn và xâm phạm quyền tác giả có điểm tương tự nhau về biểu hiện, ví dụ như việc tự ý sao chép, sử dụng tác phẩm, mạo danh tác giả, tuy nhiên không phải mọi hành vi đạo văn đều được coi là xâm phạm quyền tác giả và cũng không phải hành vi xâm phạm quyền tác giả nào cũng được coi là đạo văn. Cụ thể, bài viết đưa ra ví dụ với các trường hợp như sau:

  • Có đạo văn nhưng không xâm phạm quyền tác giả: một người có thể lấy kết quả trong tác phẩm nghiên cứu của người khác đưa vào trong tác phẩm nghiên cứu của mình nhưng không trích dẫn, không ghi tên tác phẩm được trích dẫn và tác giả của tác phẩm đó.
  • Xâm phạm quyền tác giả nhưng không đạo văn: hành vi sử dụng các tư liệu có sẵn trên internet gồm ảnh chụp, video, tranh vẽ, bản ghi âm, ghi hình, các bài viết nhưng không nằm trong các trường hợp ngoại lệ được phép sử dụng mà luật pháp quy định, vẫn có thể bị xem là hành vi xâm phạm quyền tác giả. Ví dụ, đăng lại các bài báo, tác phẩm truyện ngắn của người khác lên trang blog, trang web của mình mà không được sự cho phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.

Trên đây là bài viết “Phân biệt “xâm phạm quyền tác giả” và “đạo văn””. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng

Các tác phẩm nhiếp ảnh có cùng đối tượng có được coi là xâm phạm quyền tác giả không?

Việc các nhiếp ảnh gia cùng chụp một khung cảnh là chuyện thường thấy trong thực tế. Vậy, các tác phẩm nhiếp ảnh có cùng đối tượng có được coi là xâm phạm quyền tác giả không?

Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, các tác phẩm nhiếp ảnh thuộc một trong số những loại hình tác phẩm được bảo hộ (tại Khoản 1 Điều 14 của Luật Sở hữu trí tuệ). Tác phẩm nhiếp ảnh được bảo hộ với điều kiện:

  • Do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác (tại Khoản 3 Điều 14 của Luật Sở hữu trí tuệ).
  • Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam mà chưa được công bố ở bất kỳ nước nào hoặc được công bố đồng thời tại Việt Nam trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày tác phẩm đó được công bố lần đầu tiên ở nước khác; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Bên cạnh đó, theo Khoản 1 Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ: “Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.”Từ quy định trên, có thể thấy rằng quyền tác giả chỉ bảo hộ hình thức thể hiện tác phẩm, không bảo hộ nội dung tác phẩm (hay là những ý tưởng được truyền tải trong tác phẩm). Do đó, các tác giả khác nhau mà chụp cùng một đối tượng nhưng có hình thức thể hiện tác phẩm riêng biệt, độc lập với các tác giả khác thì các tác phẩm nhiếp ảnh đó hoàn toàn được bảo hộ quyền tác giả.

Cụ thể, việc chụp ảnh cùng một đối tượng nhưng các tác giả khác nhau thể hiện sự sáng tạo riêng của mình thông qua góc máy, các phương pháp, kỹ thuật chụp ảnh, ý tưởng tổng thể của tác phẩm, tạo cho người xem những cảm nhận khác nhau. Hai tác phẩm tuy cùng chụp một đối tượng nhưng không có sự tương đồng đáng kể trong cách thể hiện, và người xem cũng dễ dàng phân biệt được hai tác phẩm thì hai tác phẩm đó đều được bảo hộ quyền tác giả.

Với những lý do trên, có thể khẳng định rằng các tác phẩm nhiếp ảnh chụp dùng một đối tượng do những tác giả khác nhau thực hiện không bị coi là xâm phạm quyền tác giả.

Trên đây là bài viết “Các tác phẩm nhiếp ảnh có cùng đối tượng có được coi là xâm phạm quyền tác giả không?”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng

Người mẫu của một bức tranh/bức ảnh có quyền đối với bức tranh, bức ảnh có mặt họ không?

Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ của nhiều quốc gia trên thế giới, nhiếp ảnh gia sẽ là người nắm giữ quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh do mình chụp, còn họa sĩ sẽ có quyền tác giả đối với các bức tranh do họ vẽ. Tuy nhiên đối với những bức ảnh hay bức tranh chụp/vẽ con người, Người mẫu của một bức tranh bức ảnh có quyền đối với bức tranh bức ảnh có mặt họ không? Mời các bạn theo dõi bài viết dưới đây của VCD đễ biết thêm thông tin chi tiết.

1. Quyền hình ảnh là gì?

Quyền hình ảnh của cá nhân là quyền nhân thân của cá nhân. Do đó, khi sử dụng hình ảnh của bất cứ ai cũng phải được người đó cho phép và đồng ý. Quyền này được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 32 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:

  • Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý.
  • Việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho người có hình ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

Do đó, nếu tự ý sử dụng hình ảnh cá nhân, người có hình ảnh có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật.

Người mẫu ảnh hoặc tranh cũng có quyền hình ảnh đối với bức tranh/bức ảnh có mặt họ. Tuy nhiên nếu tác giả của bức ảnh/bức tranh đã có sự đồng ý khi sử dụng hình ảnh của người mẫu thì người mẫu không có quyền sở hữu đối với bức ảnh/bức tranh này.

2. Quyền của người mẫu đối với bức tranh/bức ảnh có mặt họ

Bức ảnh hay bức tranh đều có thể tạo nên mâu thuẫn về quyền tác giả giữa người được chụp và nhiếp ảnh gia, hoặc họa sĩ. Hai bên đều có lập luận đáng tin cậy, vững chắc về việc tại sao mình có quyền đối với bức ảnh, bức tranh, một bên là người tạo nên, bên còn lại là đối tượng chính của bức tranh đó.

Câu trả lời cho việc quyền tác giả thuộc về ai sẽ còn tùy thuộc vào trường hợp hình ảnh cá nhân đã được người đó đồng ý hay chưa, và có trả thù lao cho người làm mẫu hay không.

Một họa sĩ dành hàng giờ để vẽ một người tạo dáng chuyên nghiệp được thuê để tạo dáng, đứng im trong nhiều giờ đồng hồ liên tục. Trong trường hợp này thì hiển nhiên quyền đối với bức tranh tạo nên sẽ thuộc về họa sĩ chứ không phải đối tượng của bức tranh.

Tương tự như vậy, quyền đối với bức ảnh sẽ thuộc về nhiếp ảnh gia chứ không phải người được chụp. Dẫu vậy, việc nhiếp ảnh gia đó có quyền chụp ảnh người bị chụp không lại là một vấn đề khác. Nếu tranh ảnh được vẽ, chụp mà không có sự xin phép của đối tượng được chụp có thể dẫn đến các vụ kiện từ chính người bị chụp, được vẽ do họ đã bị xâm phạm quyền riêng tư, xúc phạm danh dự (nếu có)…

Theo đó, quyền đối với các bức ảnh/bức tranh rõ ràng thuộc về người chụp ảnh/họa sĩ trong trường hợp không có mâu thuẫn về bản chất nào khác. Nếu đối tượng được chụp ảnh sử dụng ảnh mà không xin phép, họ đã thực hiện hành vi xâm phạm quyền tác giả của nhiếp ảnh gia.

Trên đây là bài viết “Người mẫu của một bức tranh/bức ảnh có quyền đối với bức tranh, bức ảnh có mặt họ hay không?”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Ngày Sở hữu trí tuệ thế giới năm 2023

Nhằm tôn vinh vai trò của sở hữu trí tuệ (SHTT) trong đời sống kinh tế – xã hội, nâng cao nhận thức của cộng đồng về SHTT, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) đã chọn ngày 26 tháng 4 hằng năm là “Ngày Sở hữu trí tuệ thế giới”.

Trải qua nhiều mốc lịch sử, phụ nữ đã dần dần khẳng định vị trí của mình. Bằng sự khéo léo và sáng tạo, phụ nữ đã và đang định hình lại thế giới của chúng ta. Với sự tự tin và vốn tri thức của mình, phụ nữ đang thúc đẩy các đột phá khoa học; thiết lập các xu hướng sáng tạo và tạo dựng các doanh nghiệp mới.

Mọi đối tượng, ở khắp mọi nơi, đều có thể sử dụng quyền bảo hộ sở hữu trí tuệ để bảo vệ công nghệ, thương hiệu và sự sáng tạo của mình. Trong đó, phụ nữ chiếm gần một nửa dân số toàn cầu, họ mang tiềm năng rất lớn và là nguồn nhân lực trực tiếp tham gia sáng tạo. Thông qua ngày Sở hữu trí tuệ thế giới năm 2023, WIPO gửi tới thông điệp ủng hộ sự sáng tạo của phụ nữ, với mong muốn phụ nữ tham gia vào hoạt động đổi mới và sáng tạo nhiều hơn. Đồng thời WIPO cũng mong muốn góp phần tạo môi trường sáng tạo tốt hơn cho phụ nữ, khuyến khích phụ nữ sáng tạo và khai thác, sử dụng hiệu quả các công cụ bảo hộ sở hữu trí tuệ. Khi phụ nữ tăng cường tham gia vào hoạt động đổi mới, sáng tạo và kinh doanh song hành và gắn với những ý tưởng và quan điểm mới, tất cả chúng ta đều được hưởng lợi.

Vậy nên, chúng ta cần khuyến khích nhiều phụ nữ tham gia vào việc phát triển sở hữu trí tuệ, để họ có cơ hội thể hiện tài năng cũng như mang đến những quan điểm mới mẻ đối với sự phát triển của khoa học – kỹ thuật, kinh tế và xã hội hiện nay.

Năm 2023, WIPO đã công bố chủ đề của Ngày Sở hữu trí tuệ thế giới là “Phụ nữ với Sở hữu trí tuệ – Thúc đẩy đổi mới sáng tạo”. Thông điệp của Ngày Sở hữu trí tuệ năm nay đề cao sức sáng tạo của phụ nữ và khuyến khích phụ nữ tìm hiểu và sử dụng hiệu quả công cụ sở hữu trí tuệ.

Ngày Sở hữu trí tuệ thế giới năm 2023 là dịp để tôn vinh tất cả những người phụ nữ tài năng trên toàn thế giới. Hãy hướng tới bình đẳng giới trong hoạt động sở hữu trí tuệ và giải phóng sự khéo léo và sáng tạo của phụ nữ và trẻ em gái ở khắp mọi nơi. Cùng nhau, chúng ta có thể xây dựng một ngày mai tốt đẹp hơn.

Livestream có sử dụng âm nhạc, hình ảnh của người khác có được coi là xâm phạm bản quyền?

1. Livestream như thế nào được coi là xâm phạm quyền tác giả ?

Livestream (hay còn gọi là phát trực tiếp) là quá trình phát video trực tiếp trong thời gian thực đến khán giả trên mạng internet mà không cần ghi lại hoặc lưu trữ trước. Chỉ cần sử dụng các loại điện thoại thông minh được kết nối internet, thông qua các nền tảng công nghệ như Facebook, Youtube,…người dùng có thể tự livestream, chia sẻ cho công chúng những gì đang xảy ra ở thời điềm hiện tại. Mặc dù công nghệ livestream đem lại rất nhiều lợi ích cho mọi người, song lại tiềm ẩn nguy cơ cao xảy ra xâm phạm bản quyền. Có nhiều trường hợp người livestream không để ý, vô tình đã sử dụng những đoạn nhạc, hình ảnh, video của người khác trong khi thực hiện livestream. Cũng có những trường hợp khác, người livestream cố ý sử dụng những đoạn nhạc, hình ảnh, video của người khác để thu hút người xem mặc dù không có sự cho phép của chủ sở hữu những âm thanh, hình ảnh, video đó. Hành vi nêu trên, dù là cố ý hay vô tình đều được coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam về quyền tác giả, một trong những quyền tài sản thuộc quyền tác giả là quyền phát sóng, truyền đạt đến công chúng tác phẩm bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác, bao gồm cả việc cung cấp tác phẩm đến công chúng theo cách mà công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do họ lựa chọn (Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ). Việc các cá nhân, tổ chức khai thác, sử dụng quyền phát sóng và quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng phải được sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả và trả tiền bản quyền, các quyền lợi vật chất khác (nếu có) cho chủ sở hữu quyền tác giả. Hành vi livestream mà sử dụng tác phẩm của người khác mà không được sự cho phép và không trả tiền bản quyền cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả là hành vi trái với quy định của pháp luật, xâm phạm quyền phát sóng và truyền đạt đến công chúng tác phẩm.Bên cạnh đó, Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ đã nêu rõ hành vi xâm phạm quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả là được coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả.

Từ những quy định trên, có thể khẳng định rằng hành vi livestream có sử dụng âm nhạc, hình ảnh của người khác mà không được tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả cho phép, không trả tiền bản quyền cho chủ sở hữu quyền tác giả được coi là hành vi xâm phạm bản quyền.

2. Hành vi livestream xâm phạm quyền tác giả sẽ bị xử lý như thế nào?

Theo quy định tại Nghị định 131/2013/NĐ-CP, việc livestream xâm phạm quyền tác giả có thể bị xử phạt hành chính như sau:

  • Hành vi xâm phạm quyền công bố tác phẩm (Điều 11): Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi công bố tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả theo quy định; Buộc cải chính công khai trên phương tiện thông tin đại chúng.
  • Hành vi xâm phạm quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng (Điều 17):  Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả theo quy định; Buộc dỡ bỏ bản sao tác phẩm vi phạm.
  • Hành vi xâm phạm quyền định hình cuộc biểu diễn trực tiếp của người biểu diễn (Điều 23): Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi định hình cuộc biểu diễn trực tiếp trên bản ghi âm, ghi hình mà không được phép của chủ sở hữu quyền của người biểu diễn; Buộc dỡ bỏ bản sao cuộc biểu diễn vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường mạng và kỹ thuật số hoặc buộc tiêu hủy tang vật vi phạm.
  • Hành vi xâm phạm quyền phát sóng hoặc truyền theo cách khác đến công chúng cuộc biểu diễn chưa được định hình (Điều 25): Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với hành vi phát sóng hoặc truyền theo cách khác đến công chúng cuộc biểu diễn chưa được định hình mà không được phép của chủ sở hữu quyền của người biểu diễn, trừ trường hợp cuộc biểu diễn đó nhằm mục đích phát sóng; Buộc dỡ bỏ bản sao cuộc biểu diễn vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường mạng và kỹ thuật số hoặc tiêu hủy tang vật vi phạm.
  • Hành vi xâm phạm quyền phân phối đến công chúng chương trình phát sóng (Điều 31): Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi phân phối đến công chúng bản sao chương trình phát sóng mà không được phép của chủ sở hữu quyền của tổ chức phát sóng; Buộc dỡ bỏ bản sao chương trình phát sóng dưới hình thức điện tử, trên môi trường mạng và kỹ thuật số hoặc buộc tiêu hủy tang vật vi phạm.

Trên đây là bài viết “Livestream có sử dụng âm nhạc, hình ảnh của người khác có được coi là xâm phạm bản quyền?”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,