Skip to main content

Tác giả: Biên Tập Viên

Thông báo nghỉ lễ 30/4 – 1/5 năm 2023

Bản quyền Việt Nam xin gửi tới Quý Khách hàng lịch nghỉ lễ 30/4 -1/5 năm 2023 như sau:

➤ Thời gian nghỉ từ ngày 29/01/2023 (Thứ Bảy) đến hết ngày 03/05/2023 (Thứ Tư)

➤ Thời gian làm trở lại: Ngày 04/05/2023 (Thứ Năm)

Mọi thông tin chi tiết, Quý khách hàng, Đối tác và Cộng sự vui lòng liên hệ Hotline: 0856100294 để được hỗ trợ.

Trân trọng!

Biến tướng khi làm video review phim – liệu có vi phạm bản quyền?

Review phim ban đầu có nghĩa là đánh giá và bình luận về phim, đây là một cách phổ biến và đơn giản để cung cấp thông tin về phim, nhằm mục đích giới thiệu đến những người đang quan tâm về một bộ phim nào đó. Tuy nhiên, review phim dần dần bị biến tướng dưới dạng video ngắn cắt ghép, chỉnh sửa để giới thiệu đầy đủ về nội dung phim rồi đăng tải trên Youtube, Facebook Watch hay TikTok, nhằm mục đích kiếm tiền. Vậy việc làm những video review phim đó có phải là vi phạm bản quyền không, hãy cùng theo dõi bài viết sau của VCD.

1. Review phim và những biến tướng của từ “review”

Review hiện nay là một xu hướng nở rộ của giới trẻ. Nghề review là nghề sử dụng ý kiến chủ quan trên góc độ người sử dụng để đánh giá về một sản phẩm, dịch vụ, những quán ăn, địa điểm du lịch và cả những bộ phim hay. Nói lên cảm nhận và đánh giá chân thực của bản thân khi từng trải nghiệm, từ đó giúp mọi người quyết định có nên sử dụng sản phẩm, dịch vụ hay xem bộ phim đó nữa hay không. Tóm gọn lại, review phim được hiểu là những cảm nhận, đánh giá chủ quan của người review trong suốt quá trình họ xem phim.

Theo quy định của pháp luật, những người làm video review không được tiết lộ các tình tiết chính của bộ phim mà thường họ sẽ đánh giá tổng quan về các nhân vật, diễn viên hay bối cảnh phim. Từ đó, các reviewer sẽ nêu lên ý kiến cá nhân giúp khán giả có thêm thông tin tham khảo trong quá trình lựa chọn phim mà mình sẽ xem.

Tuy nhiên, hiện nay, bản chất review phim ở Việt Nam lại là biến tướng của recap phim (tóm tắt lại một phần hoặc toàn bộ nội dung bộ phim). Thực chất, các đoạn phim ngắn xuất hiện trên các trang mạng xã hội như youtube, facebook, tiktok với tiêu đề là review phim nhưng lại là tóm tắt nội dung phim. Bởi lẽ các video/clip này thường thuật lại toàn bộ chi tiết bộ phim và có một số ít hoặc không có đánh giá của người làm video. Thậm chí, các video này còn có những chỗ review sai lệch nội dung phim, làm ảnh hưởng đến thông điệp mà ekip sản xuất muốn truyền đạt đến người xem.

2. Review phim có vi phạm bản quyền không?

Theo Luật sở hữu trí tuệ, “Tác phẩm phái sinh là tác phẩm được sáng tạo trên cơ sở một hoặc nhiều tác phẩm đã có thông qua việc dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, phóng tác, biên soạn, chú giải, tuyển chọn, cải biên, chuyển thể nhạc và các chuyển thể khác”. Trong đó, việc tạo ra các video review phim được coi là làm tác phẩm phái sinh. Và việc review phim mà tiết lộ toàn bộ hoặc từng phần nội dung phim được coi là đang xâm phạm bản quyền tác phẩm, quyền chủ sở hữu tác phẩm.

Theo quy định mới sửa đổi bổ sung tại khoản 10 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ: “Sao chép là việc tạo ra bản sao của toàn bộ hoặc một phần của tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào“. Với quy định này, việc sao chép một phần tác phẩm chính thức được xem là hành vi sao chép, tạo cơ sở pháp lý để khắc phục được những vướng mắc do pháp luật không quy định rõ ràng trong nhiều vụ việc liên quan đến quyền tác giả trước đây.

Theo Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ, trong số các hành vi xâm phạm quyền tác giả có hành vi:

  • Làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh, trừ trường hợp trường hợp chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị;
  • Sử dụng tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả, không trả tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác theo quy định của pháp luật.

Như vậy, ngoại trừ trường hợp chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị, thì việc làm tác phẩm phái sinh nào cũng phải được sự cho phép của tác giả/chủ sở hữu tác phẩm gốc

Bên cạnh đó, việc review phim không thuộc các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao và cũng không thuộc các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao theo quy định.

Do đó, người nào review phim mà tiết lộ toàn bộ hoặc từng phần nội dung phim đang có là hành vi xâm phạm bản quyền tác phẩm, quyền chủ sở hữu tác phẩm. Tùy thuộc vào mức độ vi phạm, cá nhân, tổ chức làm review phim có thể bị xử phạt hành chính hoặc xử lý hình sự theo quy định của pháp luật.

Trên đây là bài viết “Biến tướng khi làm video review phim – liệu có vi phạm bản quyền”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Tác giả, người biểu diễn, chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan nên làm gì để tự bảo vệ quyền lợi của mình?

Đứng trước nguy cơ bị xâm phạm quyền tác giả ngày càng nhiều, tác giả, người biểu diễn, chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan nên làm gì để tự bảo vệ quyền lợi của mình?

1. Quyền tự bảo vệ của tác giả, người biểu diễn và chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan:

Có thể hiểu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ là việc nhà nước và chủ sở hữu quyền sử dụng các biện pháp để bảo vệ quyền sở hữu, ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ xảy ra trên thực tế và việc xử lý khi có hành vi xâm phạm diễn ra. Các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền tự bảo vệ và điều này đã được ghi nhận tại Điều 198 Luật sở hữu trí tuệ. Theo đó, tác giả, người biểu diễn, chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan có quyền áp dụng các biện pháp sau đây để tự bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan của mình (theo Khoản 1 Điều 198 Luật sở hữu trí tuệ) :

a) Áp dụng biện pháp công nghệ bảo vệ quyền, đưa thông tin quản lý quyền hoặc áp dụng các biện pháp công nghệ khác nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ;

b) Yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải chấm dứt hành vi xâm phạm, gỡ bỏ và xóa nội dung vi phạm trên môi trường mạng viễn thông và mạng Internet, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại;

c) Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan;

d) Khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.”

Bên cạnh đó, tác giả, người biểu diễn, chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan có thể ủy quyền cho tổ chức, cá nhân khác áp dụng các biện pháp trên để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình.

Các biện pháp nêu trên đã khá đầy đủ để giúp các chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan ngăn chặn hành vi xâm phạm cũng như tự bảo vệ khi hành vi xâm phạm xảy ra. Tuy nhiên, để những biện pháp nêu trên đạt hiệu quả cao nhất, các chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan cần phải chú ý đến việc đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan, lưu trữ các tài liệu trong khi sáng tác và công tác kiểm tra, rà soát các hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan đối với tác phẩm của mình.

2. Những việc mà tác giả, người biểu diễn, chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan cần lưu ý để tự bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan

Để bảo vệ quyền lợi của mình, các chủ thể của quyền tác giả, quyền liên quan nên có sự chuẩn bị trước, chú trọng bảo vệ quyền tác giả ngay từ những ngày đầu tiên để tránh những trường hợp tranh chấp xảy ra cũng như có những hướng xử lý phù hợp khi có hành vi xâm phạm quyền tác giả xảy ra. Chúng tôi xin tổng hợp lại những điều cần lưu ý như sau:

  • Thực hiện đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan ngay sau khi hoàn thành tác phẩm.

Ngay sau khi hoàn thành tác phẩm, tác giả, người biểu diễn, chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan nên thực hiện đăng ký quyền tác giả để bảo vệ quyền lợi của mình một cách chặt chẽ nhất. Nếu không có giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan, khi có tranh chấp xảy ra, việc chứng minh quyền sở hữu đối với tác phẩm bảo hộ là rất khó khăn. Mặt khác, theo Điều 49 Luật Sở hữu trí tuệ, tổ chức, cá nhân đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan không có nghĩa vụ chứng minh quyền tác giả, quyền liên quan thuộc về mình khi có tranh chấp, trừ trường hợp có chứng cứ ngược lại. Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan là tài liệu quan trọng nhất để chứng minh quyền của tác giả, người biểu diễn và chủ sở hữu.

  • Sử dụng các biện pháp công nghệ thích hợp để bảo vệ quyền tác giả.

Ngay trên mỗi bản sao tác phẩm, chủ sở hữu có thể đưa thông tin khuyến cáo người khác không được xâm phạm, hoặc sử dụng những biện pháp kỹ thuật để đánh dấu, nhận biết, phân biệt, bảo vệ sản phẩm được bảo hộ. Ngoài ra, trên môi trường mạng internet, các chủ thể của quyền tác giả, quyền liên quan có thể áp dụng công nghệ kiểm soát quyền truy cập tác phẩm và công nghệ kiểm soát việc sử dụng tác phẩm. Kiểm soát quyền truy cập là kiểm soát cách thức mà người dùng có thể xem, đọc, nghe hoặc tiếp cận khác về nội dung tác phẩm (ví dụ sử dụng mật khẩu, giới hạn thời gian,…). Kiểm soát quyền sử dụng là giới hạn một tác phẩm chỉ có thể được xem, hoặc có thể sao chép, truyền đạt, phát hoặc các hình thức sử dụng khác ở mức độ nhất định khi người dùng truy cập được vào tác phẩm.

  • Lưu trữ bản gốc của tác phẩm, bản định hình đầu tiên của cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng; các bản sao được công bố hợp pháp của tác phẩm, bản định hình đầu tiên của cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng. Các tài liệu trên là một trong những chứng cứ chứng minh chủ thể quyền khi yêu cầu xử lý hành vi xâm phạm quyền được quy định tại Điều 24 Nghị định 105/2006/NĐ-CP trong trường hợp không có Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan.
  • Lưu trữ các tài liệu chứng minh việc tạo ra, công bố, phổ biến tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng; các tài liệu  bản gốc hoặc bản sao hợp pháp hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, hợp đồng sử dụng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ hoặc văn bản xác nhận quyền thừa kế, quyền kế thừa đối tượng quyền sở hữu trí tuệ. Những tài liệu này là căn cứ để chứng minh chủ thể quyền và căn cứ xác lập quyền bảo hộ của tác phẩm, theo Điều 6 và Điều 24 Nghị định 105/2006/NĐ-CP trong trường hợp không có Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan.
  • Thường xuyên liên hệ, hợp tác với các chuyên gia về quyền tác giả, quyền liên quan để kết hợp kiểm tra, rà soát các hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan đối với tác phẩm của mình và để được tư vấn, hỗ trợ trong việc thu hồi tiền bản quyền.

Trên đây là bài viết “Tác giả, người biểu diễn, chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan nên làm gì để tự bảo vệ quyền lợi của mình?”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan

Không thể phủ nhận rằng, ngày nay, mạng internet đã trở thành một công cụ vô cùng phổ biến để truyền tải các tác phẩm tới công chúng. Tuy nhiên, trên môi trường mạng internet, vấn đề xâm phạm quyền tác giả đã trở nên nghiêm trọng và cần sự phối hợp của nhiều bên để ngăn chặn, trong đó có các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian. Bài viết “Trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả quyền liên quan” chúng tôi sẽ phân kỹ hơn cho quý độc giả về vấn đề này:

1. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian là gì?

Thông tư liên tịch số 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL về quy định trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian trong việc bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan trên môi trường mạng internet và mạng viễn thông đã quy định về dịch vụ trung gian và các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian như sau:

1. Dịch vụ trung gian bao gồm: dịch vụ viễn thông, dịch vụ Internet, dịch vụ mạng xã hội trực tuyến, dịch vụ tìm kiếm thông tin số, dịch vụ cho thuê chỗ lưu trữ thông tin số bao gồm cả dịch vụ cho thuê chỗ lưu trữ trang thông tin điện tử.

2. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian gồm:

a) Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet;

b) Doanh nghiệp viễn thông;

c) Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho thuê chỗ lưu trữ thông tin số bao gồm cả dịch vụ cho thuê chỗ lưu trữ trang thông tin điện tử;

d) Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến;

đ) Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tìm kiếm thông tin số.

3. Nội dung thông tin số bao gồm tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng đã được số hóa và được xử lý, lưu trữ, trao đổi, truyền đưa, cung cấp trên môi trường mạng Internet và mạng viễn thông.”

Theo Khoản 1 Điều 198b Luật Sở hữu trí tuệ, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian là doanh nghiệp cung cấp phương tiện kỹ thuật để tổ chức, cá nhân sử dụng dịch vụ đưa nội dung thông tin số lên môi trường mạng viễn thông và mạng Internet; cung cấp kết nối trực tuyến cho công chúng tiếp cận, sử dụng nội dung thông tin số trên môi trường mạng viễn thông và mạng Internet.

2.Trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan

Theo Điều 198b Luật Sở hữu trí tuệ, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian có trách nhiệm như sau:

  • Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian có trách nhiệm triển khai các biện pháp kỹ thuật, phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các chủ thể quyền thực thi các biện pháp bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan trên môi trường mạng viễn thông và mạng Internet.
  • Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian được miễn trừ trách nhiệm pháp lý đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan trên môi trường mạng viễn thông và mạng Internet liên quan đến việc cung cấp hoặc sử dụng dịch vụ của mình trong các trường hợp sau đây:
  • Chỉ thực hiện việc truyền dẫn nội dung thông tin số hoặc cung cấp khả năng truy nhập đến nội dung thông tin số;
  • Khi thực hiện chức năng lưu trữ đệm trong quá trình truyền dẫn thông tin, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian phải thực hiện một cách tự động, tạm thời nhằm mục đích trung chuyển thông tin và làm cho việc truyền dẫn thông tin hiệu quả hơn, với các điều kiện sau: chỉ biến đổi thông tin vì lý do công nghệ; tuân thủ các điều kiện truy nhập, sử dụng nội dung thông tin số; tuân thủ các quy tắc về cập nhật nội dung thông tin số được quy định cụ thể theo cách thức được ngành công nghiệp thừa nhận và sử dụng rộng rãi; không ngăn cản việc sử dụng hợp pháp công nghệ được thừa nhận rộng rãi trong ngành công nghiệp để lấy dữ liệu về việc sử dụng nội dung thông tin số; gỡ bỏ nội dung thông tin số hoặc không cho truy nhập đến nội dung thông tin số khi biết rằng nội dung thông tin số đó đã được gỡ bỏ tại nguồn khởi đầu hoặc nguồn khởi đầu đã hủy việc truy nhập đến nội dung thông tin số đó;
  • Lưu trữ nội dung thông tin số của người sử dụng dịch vụ theo yêu cầu của người sử dụng dịch vụ với các điều kiện sau: không biết rằng nội dung thông tin số đó xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan; có hành động nhanh chóng gỡ bỏ hoặc ngăn chặn việc truy nhập đến nội dung thông tin số đó khi biết rằng nội dung thông tin số đó xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan;
  • Các trường hợp khác theo quy định của Chính phủ.
  • Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian được miễn trừ trách nhiệm pháp lý trong các trường hợp trên không phải tự giám sát dịch vụ của mình hoặc chủ động tìm kiếm các bằng chứng chỉ ra hành vi xâm phạm.

Trong đó, nội dung thông tin số là tác phẩm và các đối tượng quyền liên quan được bảo hộ theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ được thể hiện dưới dạng số.

Cụ thể hơn, thông tư liên tịch số 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL quy định những điều doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian phải thực hiện như sau:

  • Lưu trữ nội dung thông tin số trong hệ thống cung cấp dịch vụ của mình chỉ mang tính chất trung chuyển, tạm thời, tự động, có thời hạn, đủ để đáp ứng yêu cầu kỹ thuật của việc truyền tải nội dung thông tin số.
  • Chấp hành công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định về quyền tác giả, quyền liên quan.
  • Gỡ bỏ và xoá nội dung thông tin số vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan, cắt, ngừng và tạm ngừng đường truyền Internet, đường truyền viễn thông khi nhận được yêu cầu bằng văn bản của Thanh tra Bộ Thông tin và Truyền thông hoặc Thanh tra Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch hoặc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật.
  • Cung cấp các thông tin về khách hàng thuê chỗ lưu trữ nội dung thông tin số, trang thông tin điện tử và khách hàng sử dụng dịch vụ trung gian khác theo yêu cầu của Thanh tra Bộ Thông tin và Truyền thông hoặc Thanh tra Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch hoặc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác.
  • Chịu trách nhiệm trực tiếp bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ và pháp luật khác có liên quan trong các trường hợp sau:

    – Là nguồn khởi đầu đăng tải, truyền đưa hoặc cung cấp nội dung thông tin số qua mạng viễn thông và Internet mà không được phép của chủ thể quyền;

    – Sửa chữa, cắt xén, sao chép nội dung thông tin số dưới bất kỳ hình thức nào mà không được phép của chủ thể quyền;

    – Cố tình huỷ bỏ hoặc làm vô hiệu hoá các biện pháp kỹ thuật do chủ thể quyền thực hiện để bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan;

    – Hoạt động như nguồn phân phối thứ cấp các nội dung thông tin số do vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan mà có.
  • Ngoài những nội dung trên, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến còn phải thực hiện các trách nhiệm sau:

    – Yêu cầu người sử dụng dịch vụ cam kết thực hiện trách nhiệm bảo đảm sử dụng hợp pháp nội dung thông tin số đưa lên đăng tải trên hệ thống mạng Internet và mạng viễn thông;

    – Cảnh báo trách nhiệm bồi thường thiệt hại dân sự, khả năng bị xử phạt vi phạm hành chính, bị truy tố trách nhiệm hình sự đối với cá nhân người sử dụng mạng xã hội trực tuyến có hành vi vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan.

Có thể thấy rằng, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian đã được quy định rõ những trách nhiệm trong việc ngăn chặn các hành vi vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, các doanh nghiệp trung gian được miễn trừ trách nhiệm pháp lý đối với đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan trên môi trường mạng viễn thông và mạng Internet.

Trên đây là bài viết “Trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Lưu ý khi tải hình ảnh từ những trang web miễn phí

Nhờ có internet, ngày nay bạn đã có thể truy cập dễ dàng vào nguồn dữ liệu hình ảnh vô cùng dồi dào và đa dạng. Tuy nhiên, việc tự ý tải xuống những gì bạn muốn từ website và sử dụng nó bất cứ khi nào bạn thích là không nên. Chủ sở hữu quyền tác giả vẫn nắm trong tay các quyền về bản quyền, trừ khi pháp luật có những quy định khác. Vì vậy, nếu bạn sử dụng một hình ảnh trong công việc thiết kế của mình mà không được phép, chủ sở hữu có thể thực hiện các hành động pháp lý để chống lại bạn. Do đó, mời bạn đọc theo dõi bài viết về lưu ý khi tải hình ảnh từ những trang web miễn phí của VCD.

1. Một số vấn đề chung về bản quyền hình ảnh

Hiện nay tình trạng vi phạm bản quyền hình ảnh đang diễn ra khá phổ biến, gây nên những ảnh hưởng đời sống của chủ sở hữu hình ảnh đó. Luật bản quyền hình ảnh được ban hành với vai trò bảo vệ bản quyền cho chủ sở hữu hình ảnh, nghiêm cấm và xử lý nghiêm những hành vi vi phạm bản quyền hình ảnh.

Theo quy định tại Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ về các loại hình tác phẩm “Tác phẩm nhiếp ảnh” được bảo hộ quyền tác giả.Trong đó, tác phẩm nhiếp ảnh theo quy định tại Điều 14 Nghị định 22/2018/NĐ-CP là tác phẩm thể hiện hình ảnh thế giới khách quan trên vật liệu bắt sáng hoặc trên phương tiện mà hình ảnh được tạo ra, hay có thể được tạo ra bằng các phương pháp hóa học, điện tử hoặc phương pháp kỹ thuật khác. Tác phẩm nhiếp ảnh có thể có chú thích hoặc không có chú thích. Tác phẩm nhiếp ảnh được bảo hộ phải do người trực tiếp sáng tạo ra bằng lao động trí tuệ của chính mình.

Vậy, bản quyền hình ảnh có thể hiểu ngắn gọn là quyền sở hữu, sử dụng một hình ảnh của cá nhân, tổ chức do chính họ tạo ra với mục đích thương mại hoặc phi thương mại. Tất cả các tổ chức, cá nhân khác nếu sử dụng hình ảnh có bản quyền mà chưa được sự cho phép của người sở hữu thì đều là vi phạm bản quyền hình ảnh.

2. Liệu tải ảnh từ các trang miễn phí có thực sự an toàn?

Có rất nhiều trang web cho phép tải ảnh miễn phí mà không yêu cầu gắn bản quyền hình ảnh khi sử dụng. Tuy nhiên, có rất nhiều rủi ro nếu bạn sử dụng những hình ảnh miễn phí này vì phía trang web nhiều khi không phải là chủ sở hữu bản quyền. Điều này có nghĩa là các trang web đó chỉ phân phối nội dung chứ không chịu trách nhiệm về mặt pháp lý.

Các trang web miễn phí này sẽ luôn nói rằng họ sẽ không bồi thường và không chịu trách nhiệm cho bất kỳ khiếu nại pháp lý nào. Do đó, bạn cần thực sự cẩn trọng khi sử dụng một hình ảnh không do chính mình tạo ra. Đặc biệt, nếu hình ảnh mà bạn sử dụng là dành cho mục đích thương mại thì càng phải kiểm tra kỹ càng về nguồn gốc.

Ngoài ra, còn có hành vi “lừa bản quyền”. Cụ thể, những người vô ý thức sẽ đăng tải các hình ảnh của mình sở hữu lên các trang web chia sẻ miễn phí. Họ sẽ chờ đợi những người khác tải về, sau đó sẽ xóa bỏ nó khỏi. Cuối cùng, những kẻ lừa đảo này sẽ tuyên bố bản quyền hình ảnh của mình đã bị vi phạm.

3. Lưu ý khi tải hình ảnh từ những trang website miễn phí

Sau tất cả, nếu bức hình được lưu trữ trên những tên miền cộng đồng (Public Domain) hay thuộc giấy phép Creative Commons, bạn có thể sử dụng hình ảnh đó. Nếu không thuộc hai trường hợp trên thì việc bạn tải hình ảnh về sử dụng (mục đích cá nhân hay thương mại) đều bị coi là bất hợp pháp. Cho dù bạn có cắt và chỉnh sửa tấm hình thì bạn vẫn phạm pháp.

Thêm vào đó, còn có những phần mềm như Adobe Stock cung cấp hàng triệu hình ảnh, video, hình minh họa, sản phẩm 3D…và miễn phí bản quyền để bạn có thể sử dụng trong các dự án của mình. Tuy nhiên, vẫn luôn có một số vấn đề về luật pháp mà bạn cần lưu ý. Việc tốt nhất là luôn phải đọc kỹ các điều khoản và điều kiện của nhà cung cấp. Như thế bạn mới có thể tránh được các rủi ro sau này.

Tuy nhiên, việc xác định nguồn gốc của hình ảnh cũng như phân biệt các loại giấy phép rất phức tạp. vậy nên người dùng là hãy mua những hình ảnh có bản quyền từ các trang chuyên cung cấp hình ảnh để tránh khỏi những tình huống đau đầu có thể xảy ra.

Trên đây là bài viết “Lưu ý khi tải hình ảnh từ những trang web miễn phí”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Vấn đề xâm phạm bản quyền hình ảnh trong kinh doanh online

Trong thời đại công nghệ, việc kinh doanh, bán hàng online đã diễn ra sôi nổi và trở thành xu thế mạnh mẽ trong vài năm trở lại đây. Nhiều cửa hàng đã đầu tư thời gian, công sức để chụp hình, quay video sản phẩm để quảng cáo và cung cấp cho khách hàng những hình ảnh chân thực nhất về sản phẩm. Tuy nhiên, việc quảng cáo trên mạng bằng hình ảnh đang không thể tránh khỏi nguy cơ bị xâm phạm bản quyền. Có rất nhiều cửa hàng kinh doanh online đã sử dụng những hình ảnh của người khác để sử dụng cho việc kinh doanh của mình, gây ảnh hưởng uy tín của nhãn hàng bị sao chép, cũng như khiến khách hàng nhầm lẫn.

1. Hình ảnh là đối tượng được bảo hộ quyền tác giả

Hình ảnh là đối tượng được bảo hộ quyền tác giả theo Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ dưới tên gọi tác phẩm nhiếp ảnh. Điều 14 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 2 năm 2018 quy định cụ thể như sau:

Tác phẩm nhiếp ảnh quy định tại là tác phẩm thể hiện hình ảnh thế giới khách quan trên vật liệu bắt sáng hoặc trên phương tiện mà hình ảnh được tạo ra, hay có thể được tạo ra bằng các phương pháp hóa học, điện tử hoặc phương pháp kỹ thuật khác. Tác phẩm nhiếp ảnh có thể có chú thích hoặc không có chú thích”.

Việc những nhãn hàng, cửa hiệu đầu tư tài chính, cơ sở vật chất, thời gian và công sức để chụp ảnh sản phẩm nhằm quảng cáo mặt hàng, quảng cáo thương hiệu có nghĩa là nhãn hàng, cửa hiệu đó là chủ sở hữu của những bức ảnh được tạo ra và là người nắm giữ quyền tài sản thuộc quyền tác giả. Nếu người khác muốn sử dụng những bức ảnh của họ thì phải  được sự cho phép của nhãn hàng, cửa hiệu đó và trả tiền bản quyền, các quyền lợi vật chất khác (nếu có) cho họ (Theo quy định tại Điều 20 Khoản 2 Luật Sở hữu trí tuệ), trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng hành vi lấy ảnh của các nhãn hàng, cửa hiệu đó mà không xin phép, không trả tiền để sử dụng cho mục đích kinh doanh là hành vi xâm phạm bản quyền.  

2. Hành vi xâm phạm bản quyền hình ảnh trong kinh doanh online sẽ bị xử lý như thế nào?

Việc sử dụng hình ảnh trong kinh doanh online giúp tăng khả năng nhận diện thương hiệu và dễ dàng tiếp cận đến người tiêu dùng một cách rộng rãi và hiệu quả. Nhiều thương hiệu, cửa hàng đã đầu tư rất lớn cho việc sáng tạo những hình ảnh độc đáo, ấn tương, gây chú ý để quảng bá cho sản phẩm và thương hiệu của mình. Tuy nhiên, nhiều người bán hàng online khác lại sao chép lại hình ảnh đó và dùng cho mục đích kinh doanh của mình, thực hiện xóa tên thương hiệu ban đầu và chèn tên thương hiệu của mình vào, thậm chí, những người này còn có tương tác bán hàng nhiều hơn so với nhãn hàng gốc.

Hành vi nêu trên là hành vi xâm phạm quyền sao chép tác phẩm của chủ sở hữu quyền tác giả. Theo Điều 18 Nghị định 131/2013/NĐ – CP, hành vi này sẽ được xứ phạt như sau:

1. Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng đối với hành vi sao chép tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.

2. Biện pháp khắc phục hậu quả:

Buộc dỡ bỏ bản sao tác phẩm vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường mạng và kỹ thuật số hoặc buộc tiêu hủy tang vật vi phạm đối với hành vi quy định tại Khoản 1 Điều này.”

Bên cạnh đó, hành vi cắt ghép hình ảnh, xóa tên thương hiệu gốc cũng được coi là hành vi xâm phạm quyền làm tác phẩm phái sinh của chủ sở hữu quyền tác giả. Theo Điều 12 Nghị định 131/2013/NĐ – CP, hành vi này sẽ được xứ phạt như sau:

“1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.

2. Biện pháp khắc phục hậu quả:

Buộc dỡ bỏ bản sao tác phẩm vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường mạng và kỹ thuật số đối với hành vi quy định tại Khoản 1 Điều này.”

Trên đây là bài viết “Vấn đề xâm phạm bản quyền hình ảnh trong kinh doanh online”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Trường hợp nào được coi là đồng tác giả? Đồng tác giả có những quyền nào?

Trong trường hợp một tác phẩm do nhiều tác giả sáng tạo nên, những người cùng thực hiện tác phẩm được gọi là đồng tác giả. Cụ thể hơn, Trường hợp nào được coi là đồng tác giả và đồng tác giả có những quyền nào?  Để giải đáp cho những thắc mắc nêu trên, chúng tôi sẽ trình bày cụ thể qua nội dung bài viết sau đây:

1. Khái niệm về đồng tác giả

Theo Điều 12a Luật Sở hữu trí tuệ, tác giả và đồng tác giả được quy định như sau:

Tác giả là người trực tiếp sáng tạo tác phẩm. Trường hợp có từ hai người trở lên cùng trực tiếp sáng tạo tác phẩm với chủ ý là sự đóng góp của họ được kết hợp thành một tổng thể hoàn chỉnh thì những người đó là các đồng tác giả.”

“Người hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu cho người khác sáng tạo  tác phẩm không phải là tác giả, đồng tác giả.”

Bên cạnh đó, theo Khoản 2 Điều 6 Nghị định 22/2018/NĐ-CP đồng tác giả được giải thích là những người cùng trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học và người hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu cho người khác sáng tạo ra tác phẩm không được công nhận là tác giả hoặc đồng tác giả.

Như vậy, đồng tác giả là người cùng với ít nhất một tác giả khác trực tiếp sáng tạo tác phẩm để tạo thành một tổng thể hoàn chỉnh, không kể đến những người hỗ trợ, đóng góp ý kiến hay những người cung cấp tư liệu khác.  

2. Quyền của đồng tác giả theo quy định của pháp luật

Tùy vào từng trường hợp cụ thể, đồng tác giả có thể có các quyền khác nhau.

Căn cứ vào việc sở hữu chung có thể phân chia hay không, các đồng tác giả có quyền khác nhau trong hai trường hợp sau:   

  • Các đồng tác giả sáng tạo tác phẩm mà phần thực hiện của mỗi người có thể tách ra để sử dụng riêng mà không ảnh hưởng tới phần của các đồng tác giả khác. Trong trường hợp này, quyền tác giả đối với tác phẩm coi là tương tự với tài sản thuộc sở hữu chung từng phần. Khi đó, các đồng tác giả sẽ có quyền nhân thân và quyền tài sản đối với phần riêng biệt đó.
  • Các đồng tác giả sáng tạo tác phẩm mà phần thực hiện của mỗi người không thể tách ra để sử dụng riêng. Trong trường hợp này, quyền tác giả đối với tác phẩm được coi là tương tự với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất không thể phân chia. Quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm thuộc sở hữu chung của tất cả đồng tác giả, do đó việc thực hiện quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm phải được sự đồng ý của tất cả các đồng tác giả.

Mặt khác, căn cứ vào việc phân biệt chủ thể sở hữu quyền tác giả là tác giả hay cá nhân, tổ chức khác đầu tư tài chính, cơ sở vật chất, các đồng tác giả có quyền khác nhau trong hai trường hợp sau:

  • Tác giả đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả: Các đồng tác giả là chủ sở hữu chung đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học và được hưởng các quyền của tác giả, bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Nếu một người là đồng tác giả sáng tác một phần riêng biệt trong tác phẩm mà có thể tách ra sử dụng độc lập mà không làm phương hại đến phần của các đồng tác giả khác thì tác giả đó có đầy đủ các quyền nhân thân và quyền tài sản đối với phần riêng biệt đó.
  • Tác giả không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả: Trường hợp việc sáng tạo tác phẩm theo nhiệm vụ được giao, theo hợp đồng giao việc từ cơ quan, tổ chức thì quyền tài sản thuộc về cơ quan, tổ chức giao việc, còn quyền nhân thân thuộc về các đồng tác giả. Các đồng tác giả có quyền nhận thù lao, nhuận bút do cơ quan, tổ chức giao việc. Chủ sở hữu quyền tác giả là người được tác giả chuyển giao quyền thì các đồng tác giả nắm giữ một hoặc một số quyền nhân thân, quyền tài sản theo thỏa thuận. Bên cạnh đó, đặc biệt đối với quyền đặt tên cho tác phẩm và quyền công bố tác phẩm là quyền nhân thân, các đồng tác giả có thể thỏa thuận với chủ sở hữu quyền tác giả về việc ai nắm giữ quyền nà

Đồng thời, theo Khoản 3 Điều 12a Luật Sở hữu trí tuệ, việc thực hiện quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm có đồng tác giả phải có sự thỏa thuận của các đồng tác giả, trừ trường hợp tác phẩm có phần riêng biệt có thể tách ra sử dụng độc lập mà không làm phương hại đến phần của các đồng tác giả khác hoặc luật khác có quy định khác.

3. Dịch vụ pháp lý hỗ trợ về chuyển nhượng quyền tác giả với tác phẩm của  Công ty Phát triển Bản quyền Việt Nam VCD

Với đội ngũ chuyên gia pháp lý nhiều kinh nghiệm, VCD tự tin trong việc hỗ trợ Khách hàng về các vấn đề liên quan tới lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói chung và các tranh chấp, yêu cầu của khách hàng về chuyển nhượng quyền tác giả với tác phẩm nói riêng. Với phương châm luôn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Khách hàng, VCD  cố gắng và đảm bảo hỗ trợ Khách hàng và triển khai công việc một cách nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả nhất, thường xuyên báo cáo tiến trình vụ việc cũng như đưa ra kế hoạch hành động tiếp theo để Khách hàng có thể dễ dàng theo dõi và đánh giá kết quả công việc. Khách hàng hoàn toàn có thể tin tưởng và an tâm khi sử dụng dịch vụ pháp lý hỗ trợ của VCD.

Trên đây là bài viết Trường hợp nào được coi là đồng tác giả? Đồng tác giả có những quyền nào?. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Phân biệt giữa tác giả – chủ sở hữu quyền tác giả

Dưới góc độ của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, những người nắm giữ quyền tác giả bao gồm tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả. Vậy, hai đối tượng này có điểm gì khác biệt và tại sao lại phải phân chia như vậy? Bài viết này sẽ phân tích và làm rõ cho quý độc giả hiểu rõ hơn về hai chủ thể này.

1. Thế nào là tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả?

Về tác giả, Điều 12a Luật sở hữu trí tuệ đã nêu ra khái niệm như sau:

Tác giả là người trực tiếp sáng tạo tác phẩm. Trường hợp có từ hai người trở lên cùng trực tiếp sáng tạo tác phẩm với chủ ý là sự đóng góp của họ được kết hợp thành một tổng thể hoàn chỉnh thì những người đó là các đồng tác giả.

Người hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu cho người khác sáng tạo tác phẩm không phải là tác giả, đồng tác giả.”

Về khái niệm chủ sở hữu quyền tác giả, Điều 36 Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân nắm giữ một, một số hoặc toàn bộ quyền quy định tại khoản 3 Điều 19 và khoản 1 Điều 20 của Luật này.”

Theo Luật Sở hữu trí tuệ, chủ sở hữu quyền tác giả có thể là:

  • Tác giả;
  • Các đồng tác giả;
  • Tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ cho tác giả hoặc giao kết hợp đồng với tác giả;
  • Người thừa kế quyền tác giả;
  • Người được chuyển giao quyền;
  • Nhà nước.

2. Phân biệt tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả

Tùy thuộc vào từng trường hợp, tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả có thể là một chủ thể hoặc là hai chủ thể riêng biệt.

  • Chủ sở hữu quyền tác giả đồng thời là tác giả: Đây là trường hợp tác giả trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và vừa sử dụng tài chính, cơ sở vật chất – kỹ thuật của mình trong quá trình thực hiện tác phẩm, do đó chủ thể vừa là tác giả, vừa là chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm. Khi đó, tác giả sẽ có đầy đủ cả quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm. Nếu tác phẩm được tạo nên bởi nhiều tác giả thì các đồng tác giả là chủ sở hữu và có chung các quyền của chủ sở hữu đối với tác phẩm. Bên cạnh đó, trong trường hợp có nhiều đồng tác giả mà mỗi phần riêng biệt trong tác phẩm của một tác giả có thể tách ra sử dụng độc lập mà không làm phương hại đến phần của các đồng tác giả khác thì tác giả đó là chủ sở hữu đối với phần riêng biệt đó.
  • Chủ sở hữu quyền tác giả không đồng thời là tác giả một trong những trường hợp sau:
    • Chủ sở hữu là cá nhân, tổ chức giao kết hợp đồng hoặc giao nhiệm vụ cho tác giả tác phẩm. Khi tổ chức giao nhiệm vụ sáng tạo tác phẩm cho người thuộc tổ chức mình, thì người được giao nhiệm vụ đó là tác giả và tổ chức là chủ sở hữu quyền tác giả. Cá nhân, tổ chức giao kết hợp đồng với tác giả để tác giả sáng tạo ra tác phẩm thì cá nhân, tổ chức đó là chủ sở hữu quyền tác giả. Trên cơ sở sự đầu tư về tài chính, các điều kiện cơ sở vật chất – kỹ thuật khác cho hoạt động sáng tạo tác phẩm, các chủ thể này nắm giữ các quyền khai thác sử dụng về mặt tài sản đối với tác phẩm sau khi tác phẩm được hoàn thành. Các quyền nhân thân của tác giả vẫn thuộc về tác giả đã sáng tạo ra tác phẩm.
    • Chủ sở hữu là cá nhân, tổ chức được thừa kế về tài sản theo pháp luật về thừa kế. Tổ chức, cá nhân được thừa kế quyền tác giả là chủ sở hữu các quyền tài sản và quyền nhân thân được quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ.
    • Chủ sở hữu là cá nhân, tổ chức được chuyển giao quyền tác giả. Căn cứ để phát sinh quyền sở hữu quyền tác giả của người được chuyển giao quyền được xác định là thời gian có hiệu lực của hợp đồng chuyển giao quyền tác giả.
    • Chủ sở hữu là Nhà nước. Nhà nước sẽ là chủ thể được hưởng quyền sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm khi tác phẩm được sáng tạo do cơ quan sử dụng ngân sách nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ, đấu thầu; tác phẩm được chủ sở hữu quyền tác giả chuyển giao quyền sở hữu cho Nhà nước; tác phẩm còn trong thời hạn bảo hộ mà chủ sở hữu quyền tác giả chết không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận di sản hoặc không được quyền hưởng di sản.

Trong trường hợp chủ sở hữu quyền tác giả không đồng thời là tác giả, tác giả sẽ nắm giữ quyền nhân thân bao gồm quyền đặt tên tác phẩm, đứng tên trên tác phẩm, bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm; chủ sở hữu sẽ nắm giữ các quyền tài sản và quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm. Tuy nhiên, đối với và quyền đặt tên cho tác phẩm (là một trong những quyền nhân thân của tác giả), tác giả có quyền chuyển quyền sử dụng quyền đặt tên tác phẩm cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao quyền tài sản. Do đó, chủ sở hữu là cá nhân, tổ chức được chuyển giao quyền tác giả có thể nắm giữ cả quyền đặt tên tác phẩm ngoài những quyền tài sản khác.

Trên đây là bài viết Phân biệt giữa tác giả – chủ sở hữu quyền tác giả”. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng!

Làm ảnh meme có được coi là xâm phạm bản quyền không?

Nhắn tin vào thời đại số hiện nay đôi khi còn phổ biến hơn gọi điện thoại, ngoài nhắn tin thông thường, người nhắn thường gửi kèm thêm các biểu tượng cảm xúc (emoji) hoặc các nhãn dán (sticker) khi nhắn tin với người thân hoặc bạn bè. Đôi khi ngôn từ và các nhãn dán không thể lột tả được hết nội tâm mà người nhắn muốn gửi gắm, thì “meme” được ra đời. Meme có thể được người sử dụng tạo ra từ chính hình ảnh tự chụp hoặc sử dụng hình ảnh trên mạng hoặc ảnh của người khác, vậy trường hợp sử dụng ảnh lấy từ nguồn khác để làm meme có bị coi là xâm phạm bản quyền không, mời bạn đọc theo dõi bài viết sau của VCD để biết thêm thông tin chi tiết.

1. Meme – Thuật ngữ mới của giới trẻ

“Meme” là một thuật ngữ rộng, bao gồm bất kỳ hình ảnh, video, văn bản hoặc nội dung trực tuyến nào, chúng thường hài hước và nhẹ nhàng nên thường được chia sẻ rất nhiều trên các trang mạng xã hội. Meme còn là những câu đùa được xây dựng dựa trên sự châm biếm, trào phúng hoặc chế nhạo và thường sử dụng các hình ảnh hoặc đoạn video khác nhau (như GIF) từ nhiều phương tiện có sẵn trên internet.

Mặc dù ở trạng thái nào đi nữa thì những meme này vẫn được thể hiện dưới những hình ảnh đáng yêu, dễ thương và không phải là những hình ảnh mang tính chất phản cảm. Do những hình ảnh dễ thương mà những meme này vừa thể hiện được cảm xúc của người gửi vừa thể hiện được tính vui vẻ đặc sắc hơn trong cuộc trò chuyện trao đổi.

Phần lớn các meme trên Internet được lan truyền bởi trẻ vị thành niên và thanh niên. Điều này là do 2 nhóm tuổi này thích truyền đi các thông điệp, đồng thời cũng rất thích thú với tính nghịch ngợm của meme. Tuy vậy, tuổi trung bình của những người tham gia lan truyền meme cũng đã tăng lên, đặc biệt là khi những người dùng độ tuổi U40 phát hiện ra tính hài hước của việc gửi những mẩu meme phổ biến tới bạn bè mình.

2. Quyền sở hữu trí tuệ và meme

Văn hóa meme vẫn còn nằm ngoài vùng phủ sóng trong lĩnh vực bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam. Mặc dù vậy, gần giống với tất cả các loại tác phẩm khác, bản quyền sẽ tự động phát sinh khi tạo một meme mới được tạo ra khi nội dung meme là tác phẩm gốc có quyền tác giả, có mức độ sáng tạo tối thiểu và được cố định ở dạng thể hiện hữu hình. Luật bản quyền sẽ trao cho những người sáng tạo ban đầu của meme hoặc chủ sở hữu của các kênh truyền thông dùng meme quyền ưu tiên, họ có quyền độc quyền sao chép, sửa đổi, phân phối, đăng tải và sử dụng meme. Do đó, làm một meme từ ảnh của người khác đôi khi có thể cấu thành hành vi vi phạm bản quyền tại Điều 28 luật SHTT về xâm phạm quyền nhân thân của tác giả “Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc; không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả” khi có hành vi đem tác phẩm gốc sửa đổi, sau đó sử dụng, chia sẻ hay sao chép để đăng lại nhiều lần.

Ngoài ra, các doanh nghiệp hiện nay cũng thường sử dụng meme làm công cụ tiếp thị để thu hút sự chú ý của khách hàng, bắt “trend” với xu hướng của giới trẻ. Khi meme được sử dụng cho mục đích thương mại, chủ sở hữu hợp pháp của meme có thể có được quyền nhãn hiệu.

3. Làm ảnh meme có được coi là xâm phạm bản quyền không?

Nói chung, việc làm và chia sẻ meme trực tuyến là hành động được coi là an toàn và khó có thể bị kiện. Tuy nhiên, khi meme được sử dụng với mục đích thương mại (chẳng hạn như in meme trên quần áo và bán chúng) mà không có sự cho phép hoặc giấy phép của chủ sở hữu hợp pháp, hoạt động đó sẽ bị cho là vi phạm bản quyền. Quy định tại Điều 28 Luật SHTT về xâm phạm quyền tài sản quy định tại Điều 20 của Luật SHTT.

Phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng thông qua bán hoặc hình thức chuyển giao quyền sở hữu khác đối với bản gốc, bản sao tác phẩm dưới dạng hữu hình

Chung quy lại, nếu bạn đang làm và chia sẻ meme trên phương tiện truyền thông xã hội hoặc các nền tảng khác trên Internet, thì việc vi phạm quyền SHTT không phải là điều đáng lo ngại. Nhưng bất kỳ hành vi kiếm tiền từ meme do người khác sở hữu đều có thể khiến chủ sở hữu quyền tác giả hoặc chủ sở hữu nhãn hiệu thực thi hành động pháp lý. Do đó, điều đầu tiên cần phải cân nhắc chính là việc xác minh quyền sở hữu và quyền sở hữu trí tuệ, chẳng hạn như các thỏa thuận cấp phép khi lựa chọn nội dung không nguyên bản được sử dụng cho mục đích thương mại, quảng cáo hoặc làm tác phẩm phái sinh.

Trên đây là bài viết “Làm ảnh meme có được coi là xâm phạm bản quyền không?”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Dịch vụ hợp tác khai thác quyền tác giả

Khi đăng tải một tác phẩm nghệ thuật, nhạc phẩm hay sản phẩm văn hóa khác, việc bảo vệ quyền tác giả là rất quan trọng để đảm bảo rằng người tạo ra tác phẩm sẽ được công nhận và được bảo vệ khỏi việc sao chép hoặc sử dụng mà không được phép. Tuy nhiên, việc quản lý và giám sát các quyền tác giả không phải là dễ dàng và đòi hỏi sự chuyên nghiệp và kinh nghiệm. Vì vậy, dịch vụ hợp tác khai thác quyền tác giả đã ra đời để giúp những người tạo ra tác phẩm bảo vệ và quản lý các quyền của họ.

Ở Việt Nam, việc bảo vệ quyền tác giả đã được quan tâm và đặt lên hàng đầu. Các quy định pháp luật đã được thiết lập để bảo vệ quyền tác giả, bao gồm Luật Sở hữu Trí tuệ và Nghị định số 22/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu Trí tuệ. Tuy nhiên, việc áp dụng và thực hiện các quy định này vẫn gặp phải nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với những người mới bắt đầu trong lĩnh vực này.

Để giúp các tác giả bảo vệ và quản lý các quyền của mình một cách hiệu quả, dịch vụ hợp tác khai thác quyền tác giả đã được cung cấp ở Việt Nam. Dịch vụ này cung cấp các giải pháp chuyên nghiệp và toàn diện để bảo vệ quyền tác giả, từ đăng ký bản quyền cho các tác phẩm mới đến theo dõi và bảo vệ các quyền tác giả đã được đăng ký.

Đối với những người mới bắt đầu trong lĩnh vực này, dịch vụ cung cấp các thông tin và hướng dẫn về quyền tác giả và các quy trình cần thiết để đăng ký bản quyền cho các tác phẩm của họ. Ngoài ra, dịch vụ cũng hỗ trợ trong việc xây dựng hồ sơ tác giả và quản lý các tác phẩm của họ.

Đối với các tác giả đã có kinh nghiệm, dịch vụ cung cấp các giải pháp tối ưu để bảo vệ quyền tác giả của họ. Điều này bao gồm theo dõi và phát hiện các vi phạm quyền tác giả, đàm phán với các bên liên quan để giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền tác giả, và thực hiện các biện pháp pháp lý để bảo vệ quyền tác giả.

Tựu chung lại, Dịch vụ hợp tác khai thác quyền tác giả sẽ trở thành một lựa chọn phổ biến và tối ưu thời gian, lợi ích để bảo vệ và quản lý các quyền tác giả của các tác giả và doanh nghiệp ở Việt Nam.

Được dẫn dắt bởi ban lãnh đạo giàu năng lực cùng đội ngũ chuyên viên dày dặn kinh nghiệm, VCD cam kết cung cấp cho Quý Khách hàng dịch vụ hợp tác khai thác quyền tác giả chuyên nghiệp, giúp Khách hàng tiết kiệm thời gian, công sức trong việc bảo vệ và thu những khoản lợi ích mà tác giả/chủ sở hữu quyền tác giả được hưởng, hỗ trợ pháp lý trong trường hợp có tranh chấp về quyền tác giả hoặc vi phạm quyền tác giả.

Với giá trị cốt lõi: “Minh bạch – Hiệu quả – Tiên phong”, VCD quyết tâm trở thành bạn đồng hành, đối tác tin cậy của các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả tại Việt Nam.