Skip to main content

Tác giả: Biên Tập Viên

Làm sách nói như thế nào để không xâm phạm bản quyền?

Sách nói (audio book) là một sản phẩm không còn xa lạ gì đối với những người yêu thích đọc sách bởi những trải nghiệm khác biệt và sự tiện ích cho người dùng. Thay vì mua sách giấy truyền thống, hay những bản sách điện tử (ebook), những năm gần đây người đọc bận rộn có thể lựa chọn là sách nói để nghe trong khi vừa làm các công việc không rảnh tay. Có thể nói, sách nói là một hướng đi mới và có khả năng tăng trưởng, phát triển mạnh mẽ trong tương lai. Vậy, những cá nhân, tổ chức cần phải chú ý gì để thực hiện và kinh doanh sách nói mà không xâm phạm bản quyền?

1. Sách nói là tác phẩm phái sinh

Sách là đối tượng chứa đựng những tri thức, nội dung và tư tưởng mà tác giả muốn truyền tải tới những người khác thông qua chữ viết, văn bản, có thể ở dưới dạng bản giấy hoặc bản điện tử. Sách có nội dung đa dạng, phong phú, thuộc nhiều thể loại khác nhau. Sách nói là hình thức trình bày nội dung của một cuốn sách dưới dạng âm thanh, được ghi lại trong bản ghi âm. Cuộc sống hiện đại ngày càng bận rộn, con người càng ít có thời gian để ngồi đọc sách, do đó, việc sử dụng sách nói là một sự lựa chọn kinh tế và tiện lợi.

    Luật Sở hữu trí tuệ không quy định trực tiếp sách hay sách nói là một đối tượng được bảo hộ quyền tác giả mà quy định tại Điều 14 Khoản 1 điểm a về tác phẩm viết, theo đó “Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác” là một trong những loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả.

    Bên cạnh đó, theo Điều 4 Khoản 8 Luật Sở hữu trí tuệ, tác phẩm phái sinh được hiểu như sau:

    “Tác phẩm phái sinh là tác phẩm được sáng tạo trên cơ sở một hoặc nhiều tác phẩm đã có thông qua việc dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, phóng tác, biên soạn, chú giải, tuyển chọn, cải biên, chuyển thể nhạc và các chuyển thể khác.”

    Từ những căn cứ trên, có thể thấy rằng sách nói là tác phẩm phái sinh từ tác phẩm sách gốc. Do đó, nếu cá nhân, tổ chức muốn thu âm sách nói phải được sự đồng ý của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả sách gốc và trả tiền bản quyền cho họ.

    2. Ghi âm sách và đăng tải lên mạng internet có được coi là xâm phạm bản quyền hay không?

    Quyền làm tác phẩm phái sinh là một trong những quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả được quy định tại Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ và tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả được độc quyền thực hiện hoặc cho phép tổ chức, cá nhân khác thực hiện quyền này. Theo đó, các tổ chức, cá nhân muốn thực hiện tác phẩm phái sinh thì phải được sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả và trả tiền bản quyền, các quyền lợi vật chất khác (nếu có) cho chủ sở hữu quyền tác giả.

    Theo Điều 28 Khoản 2 Luật Sở hữu trí tuệ, hành vi làm tác phẩm phái sinh mà không được sự cho phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả hoặc không trả tiền bản quyền cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả được coi hành vi xâm phạm quyền tác giả  do hành vi đó xâm phạm quyền tài sản thuộc quyền tác giả được quy định tại Điều 20.

    Hành vi làm sách nói tự phát và đăng tải lên mạng internet nhưng không xin phép và trả tiền bản quyền cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả của cuốn sách là hành vi xâm phạm quyền tác giả. Cần phải hiểu rõ rằng, không phải mua sách gốc có bản quyền nghĩa là đã trả tiền bản quyền cho tác giả và được phép thu âm sách nói để truyền đạt tác phẩm đến với công chúng. Quyền làm tác phẩm phái sinh hay quyền truyền đạt tác phẩm đến với công chúng đều là những quyền độc lập và phải được sự cho phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả mới được thực hiện. Việc thu âm sách nói sẽ không phải là hành vi xâm phạm nếu bản thu âm:

    • là bản sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép và chỉ được dùng cho cá nhân người thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại;
    • để hỗ trợ cho người khuyết tật không nhằm mục đích thương mại;
    • là bản sao sử dụng hợp lý tác phẩm để minh họa trong bài giảng, ấn phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng nhằm mục đích giảng dạy;
    • là bản sao trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận, giới thiệu hoặc minh họa trong tác phẩm của mình; để viết báo, sử dụng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát sóng, phim tài liệu.

    Theo Điều 12 Nghị định 131/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan, người thực hiện hành vi xâm phạm quyền làm tác phẩm phái sinh sẽ bị xử lý như sau:

    “1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.

    2. Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc dỡ bỏ bản sao tác phẩm vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường mạng và kỹ thuật số đối với hành vi quy định tại Khoản 1 Điều này.”

    Vì những lí do trên, những cá nhân, tổ chức nếu muốn sử dụng một cuốn sách để làm sách nói thì phải xin phép và trả tiền bản quyền cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả của cuốn sách đó. Nếu không thực hiện, người đó sẽ có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo mức phạt nêu trên.

    Trên đây là bài viết “Làm sách nói như thế nào để không xâm phạm bản quyền?”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

    Trân trọng,

    Vẽ hoặc đồ họa lại tranh từ tác phẩm nhiếp ảnh của người khác có được coi là vi phạm quyền tác giả hay không?

    Một bức ảnh có thể là nguồn cảm hứng cho một tác phẩm hội họa được sinh ra. Tuy nhiên, việc sử dụng tác phẩm nhiếp ảnh có sẵn của một người khác để làm mẫu vẽ thành tranh liệu có được coi là vi phạm quyền tác giả hay không? Chúng tôi xin được giải thích vấn đề “Vẽ hoặc đồ họa lại tranh từ tác phẩm nhiếp ảnh của người khác có được coi là vi phạm quyền tác giả” này dưới đây.

    1. Bản chất của việc vẽ hoặc đồ họa lại tranh từ tác phẩm nhiếp ảnh

    Trong thời đại ngày nay, việc chụp ảnh không còn khó khăn do hầu như ai cũng sở hữu một chiếc điện thoại thông minh có thể chụp ảnh và dễ dàng đăng tải nó lên mạng. Đối với họa sĩ, những người vẽ tranh, ảnh chụp là một nguồn tư liệu rất phong phú, hữu ích và có giá trị, bởi ảnh chụp có thể ghi lại được mẫu một cách nhanh chóng, thuận tiện, tỉ mỉ và chính xác đến từng chi tiết, đặc biệt là những đối tượng chuyển động nhanh như động vật, xe cộ, hoặc những đối tượng thay đổi theo thời gian và cả khả năng diễn tả ánh sáng gần sát nhất với thực tế. Do đó, việc họa sĩ sử dụng ảnh chụp để làm tư liệu hoặc làm mẫu để sao chép lại thành tranh không phải là điều khó thấy hiện nay.

    Mặc dù vậy, trước khi sao chép ảnh chụp mẫu thành tranh, các họa sĩ cần lưu ý một số những quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ liên quan đến tác phẩm nhiếp ảnh. Bởi lẽ, dưới góc độ sở hữu trí tuệ, việc sao chép lại tác phẩm nhiếp ảnh thành tranh được coi là làm tác phẩm phái sinh và việc làm này phải được sự đồng ý của tác giả tác phẩm nhiếp ảnh. Điều này được giải thích như sau:

    • Theo quy định tại Điều 14 Khoản 1 điểm h Luật Sở hữu trí tuệ, tác phẩm nhiếp ảnh là một loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả. Để giải thích rõ hơn về tác phẩm nhiếp ảnh, Nghị định 22/2018/NĐ-CP đã quy định tại Điều 14 như sau: “Tác phẩm nhiếp ảnh quy định tại điểm h khoản 1 Điều 14 của Luật sở hữu trí tuệ là tác phẩm thể hiện hình ảnh thế giới khách quan trên vật liệu bắt sáng hoặc trên phương tiện mà hình ảnh được tạo ra, hay có thể được tạo ra bằng các phương pháp hóa học, điện tử hoặc phương pháp kỹ thuật khác. Tác phẩm nhiếp ảnh có thể có chú thích hoặc không có chú thích.
    • Tác phẩm phái sinh là tác phẩm được sáng tạo trên cơ sở một hoặc nhiều tác phẩm đã có thông qua việc dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, phóng tác, biên soạn, chú giải, tuyển chọn, cải biên, chuyển thể nhạc và các chuyển thể khác (Điều 4 Khoản 8 Luật Sở hữu trí tuệ). Do đó, việc chuyển thể hình ảnh từ tác phẩm nhiếp ảnh thành tác phẩm mỹ thuật hội họa hoặc đồ họa là việc thực hiện tác phẩm phái sinh.
    • Quyền làm tác phẩm phái sinh là một trong những quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả được quy định tại Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép tổ chức, cá nhân khác thực hiện quyền này. Theo đó, các tổ chức, cá nhân muốn thực hiện tác phẩm phái sinh thì phải được sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả và trả tiền bản quyền, các quyền lợi vật chất khác (nếu có) cho chủ sở hữu quyền tác giả.

    2. Vẽ hoặc đồ họa lại tranh từ tác phẩm nhiếp ảnh của người khác có được coi là vi phạm quyền tác giả hay không?

    Có thể thấy rằng, việc vẽ hoặc đồ họa lại tranh từ tác phẩm nhiếp ảnh của người khác được coi là xâm phạm quyền tác giả nếu người thực hiện không xin phép tác giả của tác phẩm nhiếp ảnh hoặc không trả tiền bản quyền cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.

    Cụ thể, theo Điều 28 Khoản 2 Luật Sở hữu trí tuệ, hành vi được coi làm xâm phạm quyền tác giả nếu hành vi đó xâm phạm quyền tài sản thuộc quyền tác giả, trong đó có quyền làm tác phẩm phái sinh.

    Theo Điều 12 Nghị định 131/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan, người thực hiện hành vi xâm phạm quyền làm tác phẩm phái sinh sẽ bị xử lý như sau:

    “1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.

    2. Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc dỡ bỏ bản sao tác phẩm vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường mạng4 và kỹ thuật số đối với hành vi quy định tại Khoản 1 Điều này.”

    Vì những lí do trên, những họa sĩ, người vẽ tranh cần lưu ý nếu muốn lấy ảnh chụp làm mẫu để sao chép lại, vẽ hoặc đồ họa thành tranh thì phải xin phép và trả tiền bản quyền cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả của bức ảnh đó.

    Trên đây là bài viết “Vẽ hoặc đồ họa lại tranh từ tác phẩm nhiếp ảnh của người khác có được coi là vi phạm quyền tác giả hay không?”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

    Trân trọng,

    Bảo vệ bản quyền cho vũ đạo như thế nào?

    Vũ đạo là một loại hình nghệ thuật biểu diễn. Vũ đạo được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau như nhảy hiện đại, nhảy hip hop, múa ba lê, múa đương đại, khiêu vũ,…Vậy, các tác phẩm múa, nhảy, khiêu vũ có được bảo hộ quyền tác giả hay không và được bảo hộ như thế nào?

    1. Các tác phẩm vũ đạo được bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật Việt Nam

    Vũ đạo là một loại hình nghệ thuật sử dụng sự chuyển động của cơ thể theo âm nhạc để diễn đạt nội dung, ý tưởng nhất định tới công chúng. Các tác phẩm vũ đạo có thể được biết đến là những tác phẩm biểu diễn độc lập, hoặc được sử dụng kết hợp trong các vở nhạc kịch, điện ảnh, trên sân khấu dân gian,…

    Những tác phẩm vũ đạo là một trong đối tượng được bảo hộ quyền tác giả theo Khoản 1 Điều 2 Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật. Đồng thời, theo quy định của pháp luật Việt Nam, vũ đạo được xác định là một hình thức nghệ thuật biểu diễn và được xếp vào dạng tác phẩm sân khấu, một loại hình được bảo hộ quyền tác giả (Điều 14 Khoản 1 Luật Sở hữu trí tuệ). Cụ thể hơn, Khoản 1 Điều 11 Nghị định 22/2018/NĐ-CP liệt kê như sau:

    “Tác phẩm sân khấu quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 14 của Luật sở hữu trí tuệ là tác phẩm thuộc loại hình nghệ thuật biểu diễn, bao gồm: Chèo, tuồng, cải lương, múa rối, kịch nói, kịch dân ca, kịch hình thể, nhạc kịch, xiếc, tấu hài, tạp kỹ và các loại hình nghệ thuật biểu diễn khác.”

    Những đối tượng sáng tạo nên một tác phẩm vũ đạo là những người được hưởng quyền tác giả, quyền liên quan tương ứng, bao gồm: người biểu diễn, biên kịch, biên đạo múa (nhảy), sáng tác âm nhạc, thiết kế mỹ thuật, thiết kế âm thanh, ánh sáng, mỹ thuật sân khấu, thiết kế đạo cụ, kỹ xảo và các công việc khác có tính sáng tạo đối với tác phẩm. Tổ chức, cá nhân đầu tư tài chính và cơ sở vật chất – kỹ thuật để sản xuất tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu là chủ sở hữu của các quyền tài sản và quyền nhân thân gắn với quyền tài sản như quyền đặt tên và công bố tác phẩm.[1]

    2. Điều kiện bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm vũ đạo

    Tác phẩm vũ đạo để được bảo hộ quyền tác giả cần đáp ứng những tiêu chí sau đây:

    • Tác phẩm phải có tính nguyên gốc. Tính nguyên gốc có nghĩa là tác phẩm phải được hình thành từ sự lao động sáng tạo của chính tác giả, không sao chép toàn bộ hoặc một phần từ tác phẩm khác.
    • Tác phẩm phải được định hình dưới một hình thức vật chất nhất định. Có nghĩa là, tác phẩm vũ đạo phải được thiết kế, biên đạo hoàn chỉnh từ nội dung đến hình thức, hình thành tác phẩm sân khấu hoặc được ghi hình lại thì mới đạt điều kiện bảo hộ. Các động tác vũ đạo đơn lẻ không được coi là một tác phẩm sân khấu và không được bảo hộ quyền tác giả. Bên cạnh đó, biên đạo, biên kịch có thể ghi lại kịch bản nội dung ý tưởng cũng như các bước thực hiện của mình thành văn bản để được bảo hộ trọn vẹn hơn. Nếu tác phẩm chỉ ở dạng suy nghĩ, ý tưởng, chưa được đưa vào thực hiện trên thực tế thì không được bảo hộ.
    • Điều kiện về chủ thể của quyền tác giả: Là tổ chức, cá nhân Việt Nam hay nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam mà chưa được công bố ở bất kỳ nước nào; là tổ chức, cá nhân Việt Nam hay nước ngoài có tác phẩm được công bố đồng thời tại Việt Nam trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày tác phẩm đó được công bố lần đầu tiên ở nước khác; là tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Việt Nam là thành viên.

    Trên đây là bài viết “Bảo vệ bản quyền cho vũ đạo như thế nào?”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

    Trân trọng,


    [1] Theo Điều 21 Luật Sở hữu trí tuệ

    Cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí khi sử dụng các tác phẩm âm nhạc trong thời gian mở cửa kinh doanh có phải trả tiền bản quyền hay không?

    Khách sạn, nhà hàng, quán cà phê, siêu thị, khu vui chơi giải trí trong thời gian mở cửa kinh doanh thường không thể thiếu được việc sử dụng các tác phẩm âm nhạc để tạo không khí, tăng thêm điểm nhấn, giúp thu hút và tạo sự thoải mái, dễ chịu, vui vẻ cho khách hàng. Việc sử dụng những bản nhạc phù hợp trong mỗi một không gian có chủ đề nhất định là một phương pháp tăng chất lượng dịch vụ, gây ấn tượng với khách hàng, khiến khách hàng mua hàng nhiều hơn, sử dụng nhiều dịch vụ hơn và có trải nghiệm tốt, sẵn sàng để quay lại lần sau. Có thể kể đến hai hình thức thường thấy hiện nay là sử dụng bản ghi âm, ghi hình để phát nhạc nền và trực tiếp biểu diễn tại cơ sở kinh doanh. Việc sử dụng các tác phẩm âm nhạc vì mục đích thương mại như trên liệu có phải trả tiền bản quyền hay không, chúng tôi xin được làm rõ trong bài viết dưới đây.

    1. Quy định của pháp luật về việc sử dụng bản ghi âm, ghi hình vì mục đích thương mại

    Theo Điều 33 Luật Sở hữu trí tuệ, các trường hợp sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền, phải thông tin về bản ghi âm, ghi hình bao gồm:

    • Tổ chức, cá nhân sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã công bố nhằm mục đích thương mại để phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào;
    • Tổ chức, cá nhân sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã công bố nhằm mục đích thương mại để phát sóng không có tài trợ, quảng cáo hoặc không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào;
    • Tổ chức, cá nhân sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã công bố nhằm mục đích thương mại trong hoạt động kinh doanh, thương mại.

    Điều 32 Nghị định 22/2018/NĐ-CP đã giải thích cụ thể về các trường hợp nêu trên, trong đó  trường hợp sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã được công bố trong hoạt động kinh doanh, thương mại là việc tổ chức, cá nhân sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình đã được công bố để sử dụng tại nhà hàng, khách sạn, cửa hàng, siêu thị; cơ sở kinh doanh dịch vụ karaoke, dịch vụ bưu chính, viễn thông, môi trường kỹ thuật số; trong các hoạt động du lịch, hàng không, giao thông công cộng.

    Như vậy, cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí khi sử dụng các tác phẩm âm nhạc trong thời gian mở cửa kinh doanh buộc phải trả tiền bản quyền cho người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng kể từ khi sử dụng. Mức tiền bản quyền và phương thức thanh toán do các bên thỏa thuận, trong trường hợp không đạt được thỏa thuận thì thực hiện theo quy định của Chính phủ. Đồng thời, việc sử dụng bản ghi âm, ghi hình như trên không được mâu thuẫn với việc khai thác bình thường cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng và không được gây thiệt hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng.

    Tuy nhiên, liệu khi những cơ sở kinh doanh này đã mua băng, đĩa gốc có bản quyền, các bản ghi âm, ghi hình được phát hành trực tuyến một cách hợp pháp để phát nhạc nền trong lúc mở cửa kinh doanh thì có phải trả thêm tiền bản quyền do sử dụng tác phẩm trong hoạt động kinh doanh nữa không? Bởi lẽ, có sự khác nhau về bản chất giữa việc nghe, xem tác phẩm thông thường và sử dụng trong hoạt động kinh doanh để tạo ra lợi nhuận, tiền mua bản quyền cũng có sự chênh lệch không nhỏ. Trên thực tế, pháp luật Việt Nam chưa có quy định rõ ràng về vấn đề này. Do đó, các doanh nghiệp và chủ sở hữu hợp pháp bản ghi âm, ghi hình nên chủ động tìm hiểu và liên hệ với nhau để thỏa thuận về tiền bản quyền.

    2. Quy định về biểu diễn tác phẩm âm nhạc

    Theo Điều 25 Khoản 1 điểm g Luật Sở hữu trí tuệ, sử dụng tác phẩm đã công bố để biểu diễn tác phẩm sân khấu, âm nhạc, múa và các loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hóa, hoạt động tuyên truyền cổ động không nhằm mục đích thương mại thì không phải xin phép, không phải trả tiền bản quyền nhưng phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.

    Quyền biểu diễn tác phẩm là một trong những quyền tài sản thuộc quyền tác giả. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả có quyền “Biểu diễn tác phẩm trước công chúng trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các bản ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào tại địa điểm mà công chúng có thể tiếp cận được nhưng công chúng không thể tự do lựa chọn thời gian và từng phần tác phẩm” (Điều 20 Khoản 1 điểm b Luật Sở hữu trí tuệ).

    Đồng thời, tại Điều 20 Khoản 2 Luật Sở hữu trí tuệ cũng quy định rằng tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng quyền biểu diễn phải được sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả và trả tiền bản quyền, các quyền lợi vật chất khác (nếu có) cho chủ sở hữu quyền tác giả.

    Từ các quy định trên, việc các cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí tổ chức những buổi biểu diễn âm nhạc không phải xin phép, không phải trả tiền bản quyền chỉ khi buổi biểu diễn đó mang tính chất sinh hoạt văn hóa, hoạt động tuyên truyền cổ động không nhằm mục đích thương mại. Còn lại, việc những cơ sở kinh doanh trên tổ chức biểu diễn âm nhạc kể cả có thu phí hay không thu phí, nhằm mục đích thu hút nhiều khách hàng tới sử dụng dịch vụ để thu lợi nhuận thì phải được sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả và trả tiền bản quyền, các quyền lợi vật chất khác (nếu có) cho chủ sở hữu quyền tác giả.

    Trên đây là bài viết “Cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí khi sử dụng các tác phẩm âm nhạc trong thời gian mở cửa kinh doanh có phải trả tiền bản quyền hay không?”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

    Trân trọng,

    Nhạc remix có được đăng ký bản quyền tác giả không?

    Khi những ca khúc đã cũ hoặc nghe nhiều đến mức nhàm chán, giới trẻ có xu hướng phối khí hòa âm (remix) lại tạo ra một phiên bản khác của bài hát, khi đươc remix, các ca khúc sẽ có chất lượng âm thanh tốt hơn, gây ấn tượng với khán giả hơn. Các bạn trẻ luôn thích sự độc lạ và mới mẻ, nên những bản nhạc Remix luôn thu hút, hấp dẫn nhiều giới trẻ hiện nay đồng thời cũng phù hợp với thị trường và xu hướng âm nhạc trong thời điểm bây giờ. Tuy nhiên, những ca khúc remix như vậy có được đăng ký bản quyền không, mời các bạn theo dõi bài viết dưới đây của VCD để biết thêm chi tiết.

    1. Nhạc remix là gì?

    Dòng nhạc Remix chắc chắn không còn xa lạ gì với giới trẻ hiện nay bởi với giai điệu sôi động, vui tươi và nhộn nhịp khác biệt hẳn với những dòng nhạc truyền thống như Pop, Ballad, Bolero,…

    Hiểu đơn giản thì nhạc remix là nhạc được phối khí lại, làm lại từ bản nhạc gốc sao cho phù hợp với mục đích của người nghệ sĩ, tạo ra một phiên bản mới hoàn hảo hơn. Thuật ngữ này không chỉ xuất hiện trong âm nhạc mà còn được sử dụng trong phim, văn học, thơ, video, nhiếp ảnh,… Khi phối lại, người ta thường chỉnh sửa về tốc độ, nhịp điệu, cường độ, cao độ, sự cân bằng, thời gian của bản nhạc và nhiều yếu tố khác để tạo ra giai điệu bắt tai, sôi động thích hợp với thị hiếu khán giả.

    Ngoài ra, bản nhạc có thể làm lại hầu hết các thành phần âm nhạc, tùy vào người remix. Chính vì thế, các nghệ sĩ luôn tạo ra vô số các bản nhạc remix khác nhau, mỗi bài nhạc với mỗi người sẽ có cách cảm nhạc khác nhau.

    Thay vì khán giả cứ nghe đi nhe lại một bản nhạc gốc, dù cho có khúc đó có thịnh hành như thế nào, cũng phải tạo vẻ nhàm chán, không còn thích thú như lúc đầu. Ngay lúc này, người Remix sẽ phối lại bài nhạc gốc, làm mới ca khúc, gây cảm xúc tò mò và tăng cảm xúc cho người nghe.

    2. Nhạc remix có phải là tác phẩm phái sinh không?

    Nhạc remix được coi là tác phẩm phái sinh từ ca khúc gốc. Theo Khoản 8 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ, tác phẩm phái sinh“là tác phẩm được sáng tạo trên cơ sở một hoặc nhiều tác phẩm đã có thông qua việc dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, phóng tác, biên soạn, chú giải, tuyển chọn, cải biên, chuyển thể nhạc và các chuyển thể khác”.

    Một ca khúc remix là tác phẩm “phái sinh” từ ca khúc gốc nếu thỏa mãn các dấu hiệu sau:

    • Được hình thành dựa trên sự kế thừa từ một tác phẩm đã có;
    • Tác phẩm phái sinh không phải bản sao của tác phẩm gốc: pháp luật về quyền tác giả không bảo hộ nội dung ý tưởng mà chỉ bảo hộ hình thức thể hiện của ý tưởng, vậy nên, trong nhiều trường hợp, hình thức thể hiện của tác phẩm phái sinh phải khác biệt hoàn toàn hoặc khác biệt từng phần với hình thức thể hiện của tác phẩm gốc;
    • Có sự sáng tạo: sự sáng tạo của ca khúc remix thể hiện ở việc lựa chọn, sắp xếp nhịp điệu, thêm thắt những hiệu ứng âm thanh mới để thể hiện được nội dung ca khúc như trong tác phẩm gốc; nhạc remix do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng sự lao động trí tuệ của mình mà không sao chép của người khác;
    • Dấu ấn của tác phẩm gốc trong tác phẩm phái sinh: cho dù tác phẩm phái sinh được sáng tạo nguyên gốc nhưng vẫn phải đảm bảo có dấu ấn của tác phẩm gốc. Có nghĩa là khi nhận biết tác phẩm phái sinh thì công chúng phải liên tưởng đến tác phẩm gốc, sự liên tưởng này được thể hiện qua lời bài hát, giai điệu… của ca khúc gốc.

    Tác giả tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ những nội dung có tính nguyên gốc do họ sáng tạo và tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để phái sinh. Việc tạo ra, khái thác, sử dụng tác phẩm phái sinh phải được sự cho phép của chủ sở hữu tác phẩm gốc.

    Vậy, với câu hỏi nhạc remix có phải tác phẩm phái sinh không, thì câu trả lời ở đây là có thể, với điều kiện đáp ứng các dấu hiệu của tác phẩm phái sinh như đã trình bày ở bên trên.

    3. Nhạc remix có được đăng ký bản quyền tác giả không?

    Nhạc remix được bảo hộ quyền tác giả dưới dạng tác phẩm phái sinh khi đáp ứng 04 điều kiện sau:

    • Không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm gốc:

    Theo khoản 2 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ, tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh.

    • Phải do tác giả làm tác phẩm phái sinh trực tiếp sáng tạo: Khoản 3 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ quy định tác phẩm phái sinh được bảo hộ phải do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác.
    • Được sự cho phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả tác phẩm gốc: Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ  quy định tác phẩm phái sinh phải được sự cho phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả tác phẩm gốc. Trong trường hợp không có sự đồng ý của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả sẽ bị xem là hành vi xâm phạm quyền tác giả (Trừ khi tác phẩm phái sinh thuộc các trường hợp tại Điều 25 và Điều 26 Luật Sở hữu trí tuệ).
    • Phải có dấu ấn riêng của tác giả tác phẩm phái sinh: Tác phẩm phái sinh là những tác phẩm được sáng tạo dựa trên tác phẩm gốc. Nên để tác phẩm phái sinh được bảo hộ thì phải có tính sách tạo, mới mẻ và mang dấu ấn của tác giả sáng tạo ra tác phẩm phái sinh đó.

    Vậy, tác phẩm nhạc remix phải đáp ứng các điều kiện trên thì mới có thể được đăng ký bảo hộ quyền tác giả.

    Trên đây là bài viết “Nhạc remix có được đăng ký bản quyền tác giả không?”. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

    Trân trọng,

    Làm nhạc chế có xâm phạm quyền tác giả không?

    Việc làm nhạc chế từ lâu đã được công chúng biết đến và đón nhận thông qua các tiểu phẩm hài, các video ca nhạc vui nhộn. Việc chế lời này tồn tại trong đời sống xã hội như một dạng văn nghệ dân gian, giống như chuyện tiếu lâm, chủ yếu là truyền khẩu, giúp mọi người giải trí vui vẻ. Tuy nhiên, dưới góc độ sở hữu trí tuệ, các ca khúc được chế lời hát lại và đăng tải trên các trang mạng xã hội liệu có phải là hành vi xâm phạm quyền tác giả? Hãy tham khảo bài viết “Làm nhạc chế có xâm phạm quyền tác giả không?” dưới đây:

    1. Nhạc chế là gì và trào lưu chế nhạc hiện nay

    Nhạc chế là những ca khúc được viết lại một phần hoặc toàn bộ lời bài hát trên phần nhạc (giai điệu) của tác phẩm âm nhạc gốc.

    Nhạc chế và trào lưu chế nhạc đã xuất hiện từ lâu, không chỉ ở trên mạng xã hội mà còn trên cả sóng truyền hình. Nhạc chế thường được sử dụng như những điểm nhấn, điểm gây cười trong các tiểu phẩm hài trên truyền hình, và cũng thường được sử dụng như một loại hình giải trí thu hút người xem, tạo tiếng cười cho cộng đồng. Những bản nhạc chế vui nhộn được rất nhiều người đón nhận và lan truyền nhanh qua internet, thậm chí hình thành nên phong trào và có những nhóm người vì chuyên làm và quay video nhạc chế mà nổi tiếng. Đặc biệt, có những bản nhạc chế trở nên thịnh hành và nổi tiếng hơn cả tác phẩm âm nhạc gốc.

    Bên cạnh đó, việc những video nhạc chế được lan truyền, có nhiều người xem cũng đem lại khoản lợi không nhỏ cho người chế nhạc, tuy nhiên tác giả lại không nhận được phần tiền bản quyền tương ứng. Cụ thể, theo chính sách của Youtube, nếu kênh có từ 10.000 lượt theo dõi trở lên, thì với 1.000 lượt xem, chủ kênh sẽ được trả 2-3 USD (ở Mỹ hoặc châu Âu), hoặc 0,3 – 0,5 USD (ở Việt Nam). Không chỉ vậy, các chủ kênh còn thu lợi nhuận từ việc quảng cáo qua hình thức Tiếp thị liên kết, tức là chèn liên kết đến sản phẩm, dịch vụ của một công ty nào đó lên video hoặc phần mô tả kênh của mình, hoặc có thể trực tiếp ký kết hợp đồng quảng cáo với doanh nghiệp để giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp trong các video.

    Phần lớn mọi người cho rằng nhạc chế chỉ là những sản phẩm mang lại những niềm vui, sự thư giãn, tuy nhiên, cũng còn nhiều vấn đề cần phải bàn luận dưới góc độ quyền tác giả.

    2. Làm nhạc chế có xâm phạm quyền tác giả không ?

    Tác phẩm âm nhạc là loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả (theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 14 Luật sở hữu trí tuệ). Trong đó, một trong những quyền nhân thân của tác giả tác phẩm âm nhạc là được bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc; không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả (Điều 19 Khoản 4 Luật sở hữu trí tuệ). Như vậy, việc sửa đổi, thay lời bài hát, tạo ra các tác phẩm nhạc chế mà không được sự cho phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả là hành vi xâm phạm quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm.

    Theo quy định tại Điều 10 Nghị định 31/2013/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan, hành vi xâm phạm quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm có thể bị xử phạt vi phạm hành chính như sau:

    “1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi tự ý sửa chữa, cắt xén tác phẩm gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

    1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi xuyên tạc tác phẩm gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
    2. Biện pháp khắc phục hậu quả:

    a) Buộc cải chính công khai trên phương tiện thông tin đại chúng thông tin sai sự thật đối với hành vi quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này;

    b) Buộc dỡ bỏ bản sao tác phẩm vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường mạng3 và kỹ thuật số hoặc buộc tiêu hủy tang vật vi phạm đối với hành vi quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này.”

    Mặt khác, việc chế lời mới cho tác phẩm âm nhạc là hành động làm tác phẩm phái sinh. Quyền làm tác phẩm phái sinh cũng là một trong các quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả (Điều 20 Khoản 1 Điểm a Luật Sở hữu trí tuệ).

    Do đó, khi làm nhạc chế, thực hiện sửa chữa hoặc viết lời mới cho tác phẩm âm nhạc, người thực hiện phải được sự đồng ý bằng văn bản của tác giả, được sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả và trả tiền bản quyền, các quyền lợi vật chất khác (nếu có) cho tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả (Điều 20 Khoản 2 Luật Sở hữu trí tuệ).

    Như vậy, mọi hành vi sửa chữa, viết lại lời bài hát để làm nhạc chế đều là hành vi xâm phạm quyền tác giả nếu như không được sự cho phép của tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả. Khi có nhu cầu viết lại lời bài hát thì các tổ chức, cá nhân nên liên hệ với tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả để xin phép và trả khoản tiền nhuận bút, thù lao tương xứng cho họ.

    Trên đây là bài viết “Làm nhạc chế có xâm phạm quyền tác giả không?”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

    Trân trọng,

    Vì sao không nên xem phim trên web “lậu”?

    Thay vì phải trả 1 khoản tiền để ra rạp hoặc xem phim ở các website bản quyền như Netflix, HBO go, Apple TV+…, một người có thể dễ dàng lên Google tìm và xem một bộ phim thông qua các trang web không phải của nhà sản xuất, không chính thức với cái giá “miễn phí”. Chính vì sự “miễn phí”, đồng thời do không hiểu rõ về luật sở hữu trí tuệ cũng như những nguy hiểm rình rập sau đó, nhiều khán giả vẫn không nhận thức được rằng hành vi xem phim mà không trả phí trên những trang web đó là sai. Bài viết sau của VCD sẽ nêu rõ hơn về những lý do tại sao khán giả không nên xem phim trên web “lậu”.

    1. Web phim “lậu” là gì?

    Web phim “lậu” không phải là trang web chính thức của nhà sản xuất nhưng đã thực hiện đăng tải lại các bộ phim điện ảnh, truyền hình, các chương trình giải trí đó mà không xin phép, không trả tiền bản quyền của phim cho nhà sản xuất. Những trang web này đã sao chép, cắt nối, biên dịch lại lời thoại, trình chiếu và truyền đạt các tác phẩm điện ảnh ra công chúng không được phép của chủ thể quyền, đồng thời thực hiện kinh doanh quảng cáo các sản phẩm, dịch vụ khác trên trang web và chèn quảng cáo vào các bộ phim nhằm thu lợi bất chính.

    2. Các web phim “lậu” có hoạt động trái pháp luật không?

    Theo Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ, “tác phẩm điện ảnh, tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự” là một trong các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả. Việc đăng tải phim công khai lên các trang web “lậu” là một hình thức xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh. Cụ thể, hành vi nêu trên đã vi phạm quyền phân phối tác phẩm và quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác, bao gồm cả việc cung cấp tác phẩm đến công chúng theo cách mà công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do họ lựa chọn (Theo Điều 20 và Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ).

    Hành vi không xin phép, không trả tiền bản quyền mà đã phân phối và truyền đạt tác phẩm tới công chúng là hành vi gây thiệt hại kinh tế cho nhà sản xuất và những người tham gia thực hiện tác phẩm điện ảnh. Không chỉ vậy, hành vi nêu trên còn triệt tiêu động lực phát triển của thị trường phim ảnh nói riêng và thị trường các tác phẩm sáng tạo khác nói chung.

    Theo quy định hiện hành, hành vi này có thể bị xử lý hành chính thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 211, Điều 212 Luật Sở hữu trí tuệ) tùy theo tính chất, mức độ xâm phạm, cụ thể:

    • Về xử lý hành chính, theo Điều 15 và Điều 17 Nghị định 131/2013/NĐ-CP, hành vi phát tán phim lậu có thể bị phạt tiền từ 10-30 triệu đồng.
    • Về xử lý hình sự, hành vi trình chiếu, đăng tải công khai tác phẩm điện ảnh không được cấp bản quyền là hành vi có dấu hiệu của tội “xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan” được quy định tại Điều 225 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.

    Như vậy, việc các trang phim lậu tiếng Việt tự ý sao chép tác phẩm điện ảnh trong sản xuất trong nước hoặc nước ngoài, làm thuyết minh, phụ đề tiếng Việt rồi đăng tải để thu lợi bất chính mà không được chủ sở hữu (trong hoặc ngoài nước) cho phép chính là hành vi xâm phạm quyền tác giả và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

    3. Những lý do không nên xem phim trên web “lậu”

    “Nếu coi phim ảnh giải trí là thức ăn cho tâm trí thì web lậu là những “quán ăn” độc hại bán thực phẩm bẩn, dù nó cho không, nhưng làm gì có cái gì thật tốt mà lại cho không?”. Vì vậy, khán giả không nên xem phim trên web “lậu” vì những lý do sau:

    Thứ nhất, việc xem phim “lậu” kém chất lượng làm quá trình trải nghiệm của người xem không được trọn vẹn. Khi các trang web này đánh cắp những bộ phim từ các nhà sản xuất, tất nhiên sẽ không bao giờ đảm bảo được những hình ảnh sắc nét 4K hay 1080 HD như ở ngoài rạp hay trên ứng dụng trực tuyến. Đồng thời, những bản sao chép phim “lậu” còn có thể bị cắt nối, biên tập lại, chèn thêm những đoạn quảng cáo khiến người xem khó chịu.

    Thứ hai, có những nguy hiểm tiềm ẩn cho người dùng trên trang phim “lậu”. Nhiều trang phim lậu có cài mã độc hoặc kèm theo link dẫn tới trang chứa mã độc để phục vụ những mưu đồ cá nhân. Nhiều kẻ làm trang phim lậu còn biến trang phim thành trang “tổng hợp”, kèm theo phim còn chạy quảng cáo chào mời cờ bạc trực tuyến, cá cược thể thao, nhất là cá cược bóng đá…

    Thứ ba, việc xem phim trên web “lậu” là đang tiếp tay cho hành vi sai trái. Việc xem phim mà không trả phí khiến các hãng phim và các trang web mua bản quyền phim không thu được lợi nhuận, không bù đắp được cho khoản đầu tư đã bỏ ra để sản xuất phim trước đó cũng như không có đủ kinh phí để chi trả tiền công cho các siễn viên, đạo diễn và những người tham gia dựng phim. Ngoài ra, những tác phẩm điện ảnh là những đứa con tinh thần của những người thực hiện, việc xem phim không trả phí khiến cho những người làm phim cảm thấy công sức họ bỏ ra không được trân trọng, từ đó không tạo được động lực sáng tạo, phát triển để thực hiện những tác phẩm có giá trị. Tại Việt Nam, nếu còn có người tiếp tay và không xử lý triệt để hành vi vi phạm nêu trên, nề điện ảnh nội địa sẽ không còn sức cạnh tranh với các nền điện ảnh nước ngoài, không có cơ hội, động lực để phát triển.

    Trên đây là bài viết “Vì sao không nên xem phim trên web “lậu”?”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

    Trân trọng

    Công thức nấu ăn có được bảo hộ quyền tác giả không?

    Nghệ thuật ẩm thực ngày càng phát triển, các đầu bếp đã không ngừng sáng tạo, đầu tư nghiên cứu để cho ra đời những công thức nấu ăn mới, đặc sắc và có giá trị thương mại cao. Các thương hiệu ẩm thực hay những nhà hàng đều có những công thức đặc biệt của riêng mình mà chúng đóng vai trò không nhỏ quyết định sự thành công của nhà hàng đó. Vậy, liệu công thức nấu ăn có được bảo hộ quyền tác giả không?

    1. Công thức nấu ăn là gì?

    Công thức nấu ăn được hiểu là bản hướng dẫn cách chế biến một món ăn nhất định. Công thức nấu ăn bao gồm tên món ăn, thời gian thực hiện, các thành phẩn và số lượng nguyên liệu, tỉ lệ giữa các nguyên liệu, các thiết bị cần sử dụng, các bước thực hiện cùng các phương pháp chế biến từ sơ chế tới nấu và trình bày.

    2. Công thức nấu ăn có được bảo hộ quyền tác giả không?

    Theo Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, đối tượng bảo hộ quyền tác giả là các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học (theo Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ), bao gồm:

    • Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác;
    • Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác;
    • Tác phẩm báo chí;
    • Tác phẩm âm nhạc;
    • Tác phẩm sân khấu;
    • Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự (sau đây gọi chung là tác phẩm điện ảnh);
    • Tác phẩm mỹ thuật, mỹ thuật ứng dụng;
    • Tác phẩm nhiếp ảnh;
    • Tác phẩm kiến trúc;
    • Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình khoa học;
    • Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian;
    • Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.

    Công thức nấu ăn không phải là một trong các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả được nêu trong Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam. Mặc dù công thức nấu ăn cũng mang tính mới, tính sáng tạo, song bản chất của nó lại là một quy trình, phương pháp thực hiện. Theo Điều 15 Luật Sở hữu trí tuệ, quy trình hay phương pháp hoạt động đều không được bảo hộ quyền tác giả. Do đó, bản thân công thức nấu ăn chưa được định hình dưới dạng vật chất nhất định thì không được bảo hộ quyền tác giả.

    Tuy nhiên, khi công thức nấu ăn được định hình dưới dạng chữ viết, văn bản thì được bảo hộ quyền tác giả dưới dạng tác phẩm khác hoặc giáo trình hướng dẫn nấu ăn và được bảo hộ như bảo hộ tác phẩm văn học. Người sáng tạo ra công thức nấu ăn có thể viết công thức với nội dung mô tả quy trình thực hiện và toàn bộ các phương pháp, cách thức tạo nên món ăn. Người viết ra công thức nấu ăn chính là tác giả của tác phẩm và có đầy đủ quyền nhân thân, quyền tài sản đối với tác phẩm. Ví dụ, công thức nấu ăn được in thành sách, hoặc được trình bày trong một bài báo, tạp chí thì phần văn bản công thức nấu ăn đó được bảo hộ quyền tác giả. 

    Việc đăng ký bảo hộ công thức nấu ăn dưới hình thức bảo hộ quyền tác giả ngăn chặn việc các cá nhân, tổ chức khác sửa chữa, sao chép, phân phối, truyền đạt tác phẩm đến công chúng, cho thuê hoặc làm tác phẩm phái sinh đối với công thức nấu ăn dưới dạng văn bản. Tuy nhiên, việc bảo hộ quyền tác giả là không tuyệt đối nếu như người sáng tạo ra công thức muốn giữ bí mật về công thức này. Bởi quyền tác giả chỉ bảo hộ hình thức thể hiện chứ không áp dụng đối với nội dung, ý tưởng của tác phẩm, người khác hoàn toàn được quyền tiếp cận, đọc công thức và làm được ra món ăn đúng như hướng dẫn.

    Trong trường hợp người tạo nên công thức nấu ăn có ý định chia sẻ, hoặc mong muốn đạt được lợi ích kinh tế thông qua việc bán công thức nấu ăn dưới dạng văn bản, sách báo thì việc đăng ký bảo hộ quyền tác giả như trên là hoàn toàn hợp lý. Còn trong trường hợp người sáng tạo muốn giữ bí mật hoàn toàn công thức này vì mục đích kinh doanh, công thức nấu ăn phải được đảm bảo không bị bộc lộ và không dễ dàng tiếp cận được để được bảo hộ dưới dạng bí mật kinh doanh. 

    Vậy, công thức nấu ăn hoàn toàn có thể được bảo hộ quyền tác giả. Tuy nhiên, lựa chọn bảo hộ công thức nấu ăn dưới hình thức nào phụ thuộc vào mục đích, mong muốn của người sáng tạo nên nó.

    Trên đây là bài viết “Công thức nấu ăn có được bảo hộ quyền tác giả không?”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

    Việc sử dụng phần mềm crack có vi phạm pháp luật không?

    Các phần mềm chính thống thường có phí sử dụng rất cao, điều này khiến người dùng máy tính e ngại và hay tìm đến một cách “lách luật” khác, đó là dùng phần mềm crack. Phần mềm crack ngày càng được phổ biến vì khi sử dụng các phần mềm đó người dùng sẽ không phải trả phí nhưng vẫn sử dụng được hết chức năng. Tuy nhiên, điều này có thể gây những nguy cơ tiềm ẩn cho khách hàng. Vậy, việc người dùng sử dụng phần mềm crack có được coi là vi phạm pháp luật không, hãy theo dõi bài viết dưới đây của chúng tôi.

    1. Phần mềm crack là gì?

    Pháp luật Việt nam chưa có định nghĩa rõ ràng về “Phần mềm crack”. Crack có thể hình dung là hành động của lập trình viên bẻ khóa để truy cập vào phần mềm một cách lén lút, ăn trộm phần mềm, làm cho một sản phẩm phần mềm có đăng ký bản quyền, phải trả phí để có thể sử dụng trở thành miễn phí khi được kích hoạt.

    Ngắn gọn, phần mềm crack được hiểu đơn giản nhất là các phần mềm trả phí đã được bẻ khóa, khi sử dụng các phần mềm đã được crack, người dùng được sử dụng tất cả các chức năng miễn phí tất cả các chức năng và không bị giới hạn về thời gian.

    2. Tại sao phần mềm crack lại được nhiều người sử dụng?

    Một trong những tiện ích đầu tiên và lớn nhất đối với người sử dụng phần mềm crack là được sử dụng miễn phí tất cả các chức năng mà không bị giới hạn. Một số ứng dụng có phí muốn sử dụng phải tốn từ vài chục nghìn đến vài chục triệu một năm. Do đó, việc sử dụng phần mềm crack sẽ giảm thiểu một khoản tiền bỏ ra không hề nhỏ.

    Ngoài ra, việc có được các file crack sẽ giúp cài đặt các phần mềm một cách thoải mái và nhanh chóng. Cũng như dễ dàng chia sẻ cho nhiều người sử dụng, không cần phải mua một phần mềm nhiều lần để cài trên nhiều máy khác nhau.

    3. Sử dụng phần mềm crack có vi phạm pháp luật không?

    Pháp luật cấm mọi biện pháp sao chép, sử dụng trái phép các phần mềm, mở khóa phần mềm khi chưa có sự cho phép của chủ sở hữu trí tuệ. Vì vậy việc sử dụng phần mềm không có bản quyền là vi phạm pháp luật. Trong mọi trường hợp, vấn đề bảo vệ sở hữu trí tuệ luôn được quan tâm hơn cả.

    Crack không chỉ tác động xấu đến độ ổn định của hệ thống mà còn tiềm ẩn các nguy cơ đánh mất thông tin quan trọng cùng những phiền phức do các chương trình phá hoại ẩn gây ra và đặc biệt hơn cả là tác động rất xấu đến ý thức người dùng. Không những vậy, hành vi trên còn là hành vi vi phạm pháp luật vì các chương trình máy tính là một trong những đối tượng nằm trong các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả theo Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ.

    “Crack” là một hành động can thiệp nhằm vô hiệu hoá tính năng bảo vệ bản quyền của nhà sản xuất. Do đó, hành vi trên là hành vi xâm phạm quyền tác giả theo quy định tại Khoản 4 Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ như sau:

    “4. Cố ý hủy bỏ hoặc làm vô hiệu biện pháp công nghệ hữu hiệu do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình nhằm thực hiện hành vi quy định tại Điều này và Điều 35 của Luật này”.

    Hành vi cố ý hủy bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật, công nghệ do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình có thể bị xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng (theo Điều 20 Nghị định 131/2013/NĐ-CP).

    Hành vi tải và sử dụng phần mềm crack là hành vi vi phạm quyền tác giả. Cụ thể hơn, nó được coi là hành vi sao chép và sử dụng phần mềm máy tính mà không sự xin phép chủ sở hữu và trả tiền bản quyền theo quy định tại Khoản 2 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ.

    “Tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền quy định tại khoản 1 Điều này và khoản 3 Điều 19 của Luật này phải được sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả và trả tiền bản quyền, các quyền lợi vật chất khác (nếu có) cho chủ sở hữu quyền tác giả”.

    Hành vi xâm phạm quyền sao chép tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả có thể bị xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng (theo Điều 18 Nghị định 131/2013/NĐ-CP).

    Sử dụng phần mềm crack đồng nghĩa với việc vi phạm bản quyền, khi bị phát hiện sẽ phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm. Theo Luật Sở hữu trí tuệ quy định thì hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự có yếu tố cấu thành tội phạm. Tuy nhiên việc sử dụng phần mềm crack ở Việt Nam diễn ra rất phổ biến và thường xuyên, gần như không có sự quản lý, trong tương lai từ nay về sau, việc xử lý sử dụng những hành vi vi phạm trên ở Việt Nam cần phải được áp dụng và làm chặt chẽ hơn.

    Trên đây là bài viết “Việc sử dụng phần mềm crack có vi phạm pháp luật không?”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

    Trân trọng,

    Li-xăng quyền tác giả, quyền liên quan

    Trong sự nghiệp đổi mới sâu sắc và toàn diện ở nước ta hiện nay, cùng với sự phát triển chung của xã hội, các giao dịch về các tài sản trí tuệ vô hình ngày càng phát triển đa dạng, phong phú và có một vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế hiện đại. Một trong những giao dịch phổ biến về quyền sở hữu trí tuệ chính là li-xăng (hay còn gọi là chuyển quyền sử dụng) quyền tác giả, quyền liên quan. Vậy li xăng quyền tác giả, quyền liên quan được hiểu như thế nào và bản chất pháp lý của loại hợp đồng này là gì, tất cả sẽ đều được làm rõ dưới bài viết của chúng tôi.

    1. Khái niệm về li-xăng quyền tác giả, quyền liên quan

    Li-xăng là một từ có nguồn gốc từ tiếng Latin “Licentia” có nghĩa là sự cho phép, cấp phép hay giấy phép đặc quyền sử dụng một đối tượng nào đó. Phiên âm “li-xăng” được phiên âm từ tiếng  Pháp “License”.   

    Li -xăng được hiểu là việc tổ chức, cá nhân nắm độc quyền sử dụng một đối tượng quyền tác giả, quyền liên quan (Bên chuyển quyền sử dụng – thường được gọi là bên giao) cho phép tổ chức cá nhân tổ chức khác (Bên nhận quyền sử dụng –  thường được gọi là Bên nhận) sử dụng đối tượng liên quan đến quyền tác giả, quyền liên quan của mình. Việc cho phép sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan thường được thực hiện thông qua hợp đồng bằng văn bản, trong đó hai bên giao kết xác định rõ về nội dung, mục đích, phạm vi lãnh thổ và thời hạn chuyển giao quyền sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan.

    Trong Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện nay, giao dịch trên được đề cập đến dưới thuật ngữ “hợp đồng chuyển quyền sử dụng”, cụ thể tại Điều 47 Khoản 1 quy định: “Chuyển quyền sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan là việc chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng có thời hạn một, một số hoặc toàn bộ các quyền quy định tại khoản 3 Điều 19, Điều 20, khoản 3 Điều 29, Điều 30 và Điều 31 của Luật này.”  Tuy nhiên trên thực tế và trong một số văn bản pháp luật khác, thuật ngữ “hợp đồng li-xăng” vẫn còn được sử dụng nhiều.

    Về đối tượng của hợp đồng, đối tượng của hợp đồng li-xăng quyền tác giả, quyền liên quan thông thường chính là li-xăng quyền tài sản của chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm. Bởi lẽ, quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản, trong đó quyền nhân thân là quyền luôn gắn liền với chủ sở hữu quyền tác giả và không thể chuyển nhượng được trừ quyền đặt tên cho tác phẩm, quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm. Tuy nhiên, quyền đặt tên cho tác phẩm, quyền công bố tác phẩm trên thực tế chỉ có thể thực hiện trong một lần, vì vậy các quyền nhân thân đó không được xem xét để thực hiện chuyển quyền sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan. Bên cạnh đó, trong trường hợp tác phẩm chưa được công bố, trước hoặc trong khi giao kết hợp đồng li-xăng, cần phải giao kết cả hợp đồng chuyển nhượng quyền công bố tác phẩm để đảm bảo tốt nhất cho việc khai thác, sử dụng của bên được chuyển quyền.  

    Như vậy, có thể hiểu li xăng quyền tác giả, quyền liên quan là việc chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan chuyển quyền sử dụng, cho phép cá nhân, tổ chức khác sử dụng có thời hạn một, một số hoặc toàn bộ quyền tài sản theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ.

    2. Những lưu ý khi li-xăng quyền tác giả, quyền liên quan

    Thông thường khi tiến hành li xăng quyền tác giả, quyền liên quan, bên chuyển quyền sử dụng và bên nhận quyền sử dụng phải hết sức lưu ý những vấn đề sau nằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tiến hành chuyển nhượng.

    • Về giới hạn quyền được phép chuyển quyền sử dụng:
      • Tác giả không được chuyển nhượng những quyền nhân thân, bao gồm quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, quyền được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng, quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc; quyền không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả;
      • Người biểu diễn không được chuyển nhượng những quyền nhân thân, bao gồm được giới thiệu tên khi biểu diễn, khi phát hành bản ghi âm, ghi hình, phát sóng cuộc biểu diễn; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của hình tượng biểu diễn không cho người khác xuyên tạc; quyền không cho người khác sửa đổi, cắt xén dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của người biểu diễn.
    • Về đồng chủ sở hữu, trong trường hợp tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng có đồng chủ sở hữu thì việc chuyển quyền sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan phải có sự thoả thuận của tất cả các đồng chủ sở hữu; trong trường hợp có đồng chủ sở hữu nhưng tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng có các phần riêng biệt có thể tách ra sử dụng độc lập thì chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan có thể chuyển quyền sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan đối với phần riêng biệt của mình cho tổ chức, cá nhân khác. Đây là vấn đề mà bên chuyển quyền sử dụng và bên nhận quyền sử dụng phải hết sức lưu ý trước khi tiến hành chuyển quyền sử dụng.
    • Về việc chuyển quyền sử dụng cho tổ chức, cá nhân khác: tổ chức, cá nhân được chuyển quyền sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan có thể chuyển quyền sử dụng cho tổ chức, cá nhân khác nếu được sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan. 

    Việc hiểu bản chất cũng như những lưu ý khi tiến hành giao dịch li-xăng quyền tác giả, quyền liên quan là điều vô cùng cần thiết. Hi vọng với bài viết “Li xăng quyền tác giả, quyền liên quan” sẽ giúp cung cấp thông tin những khía cạnh pháp lý một cách đầy đủ nhất của giao dịch này cho quý độc giả. 

    Trân trọng,