Skip to main content

Tác giả: Biên Tập Viên

Hiểu như nào là đúng về công bố tác phẩm?

Tác phẩm được xem như những đứa con tinh thần của tác giả, được tác giả bỏ thời gian, công sức trau chuốt để có thể hoàn thiện một cách hoàn mỹ nhất. Chính vì lẽ đó, bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm đóng một vai trò rất quan trọng trong việc công nhận sự sáng tạo của người làm. Tuy nhiên, hiện nay có nhiều đối tượng xấu, bất chấp hành vi phi đạo đức mà ăn cắp tác phẩm của người khác một cách tráo trở khi tác phẩm đó chưa được công bố. Vậy,Hiểu như nào là đúng về công bố tác phẩm, mời bạn đọc cùng VCD theo dõi bài viết dưới đây.

I. Công bố tác phẩm là gì? Thế nào là quyền công bố tác phẩm?

1. Công bố tác phẩm

Những tác phẩm chưa được công bố là những đối tượng dễ bị đánh cắp nhất vì chưa có ai tuyên bố quyền sở hữu của mình đối với các tác phẩm đó. Để dễ dàng chứng mình quyền sở hữu tác phẩm khi có tranh chấp, các tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả nên công bố tác phẩm của mình tới công chúng sớm nhất có thể.

Hiểu theo cách thông thường, công bố tác phẩm là việc đưa ra công khai tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học để cho mọi người biết dưới các hình thức như: xuất bản, trưng bày, biểu diễn, thuyết trình… hoặc đăng kí tác phẩm đó tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

2. Quyền công bố tác phẩm

Công bố tác phẩm là một trong những nội dung quan trọng của quyền tác giả. Tác giả trong trường hợp đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm có toàn quyền công bố, phổ biến hoặc cho người khác công bố, phổ biến tác phẩm của mình. Khi công bố tác phẩm, tác giả còn có quyền lựa chọn hình thức, loại hình nghệ thuật thích hợp với tác phẩm đó.

Quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm là một trong những quyền nhân thân của quyền tác giả được quy định tại Luật sở hữu trí tuệ.

Theo Khoản 2 Điều 20 Nghị định 22/2018/NĐ-CP ngày 23/02/2018 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan quy định:

“Quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm quy định tại khoản 3 Điều 19 của Luật Sở hữu trí tuệ là việc phát hành tác phẩm đến công chúng với số lượng bản sao hợp lý để đáp ứng nhu cầu của công chúng tuỳ theo bản chất của tác phẩm, do tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện hoặc do cá nhân, tổ chức khác thực hiện với sự đồng ý của tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả.

Công bố tác phẩm không bao gồm việc trình diễn một tác phẩm sân khấu, điện ảnh, âm nhạc; đọc trước công chúng một tác phẩm văn học; phát sóng tác phẩm văn học, nghệ thuật; trưng bày tác phẩm tạo hình; xây dựng công trình từ tác phẩm kiến trúc.”

Có thể thấy rằng, dưới góc độ pháp luật về quyền tác giả, thuật ngữ “công bố tác phẩm” được diễn giải khác biệt so với cách hiểu thông thường. Theo đó, công bố tác phẩm được hiểu là việc phát hành bản sao tác phẩm đến công chúng, với số lượng hợp lý để đáp ứng nhu cầu của công chúng tuỳ theo bản chất của tác phẩm, với sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả. Việc công bố tác phẩm phụ thuộc vào ý chí chủ quan của tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả, không phụ thuộc vào thời điểm xuất hiện hay số lần tác phẩm được giới thiệu trước công chúng và có được công chúng biết tới hay chưa.

Như vậy, thời điểm công bố tác phẩm là thời điểm mà tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả phát hành tới công chúng bản sao tác phẩm với số lượng hợp lý để đáp ứng nhu cầu của công chúng.

II. Ý nghĩa của việc công bố tác phẩm

Việc xác định một tác phẩm đã được công bố hay chưa có ý nghĩa rất quan trọng đối với tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả bởi những lý do dưới đây:

Thứ nhất, việc xác định một tác phẩm đã được công bố có nghĩa xác định thời điểm công bố tác phẩm đó. Thời điểm này có ý nghĩa quan trọng trong việc làm căn cứ tính thời hạn bảo hộ của tác phẩm.

Thứ hai, việc xác định tác phẩm đã được công bố xác định giới hạn lãnh thổ mà tác phẩm được bảo hộ bởi lẽ phạm vi bảo hộ quyền tác giả mang tính lãnh thổ.

Thứ ba, việc xác định tác phẩm đã được công bố xác định giới hạn quyền tác giả và quyền liên quan. Giới hạn bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan chính là các trường hợp sử dụng tác phẩm không cần xin phép, không cần trả tiền nhuận bút, thù lao được quy định tại Điều 25 và Điều 32 Luật Sở hữu trí tuệ 2022. Chỉ những tác phẩm “đã được công bố” mới có thể được áp dụng hai điều luật này.

Lao động nghiên cứu, sáng tạo là công cụ và sản phẩm của một môi trường văn hóa mà bất cứ hành vi phản văn hóa nào xảy ra trong môi trường văn hóa ấy đều bị phản đối. Do đó, để bảo vệ quyền lợi của tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả tốt nhất, những người sáng tạo nên đăng ký bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan cho tác phẩm của mình.

Trên đây là bài viết “Hiểu như nào là đúng về công bố tác phẩm”. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Một số lưu ý về bảo hộ quyền tác giả đối với chương trình máy tính

Chương trình máy tính là một đối tượng được bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, việc bảo hộ quyền tác giả như một tác phẩm văn học đối với chương trình máy tính theo pháp luật Việt Nam còn tồn tại những hạn chế, thách thức nhất định, không đạt được hiệu quả bảo hộ tối ưu. Để hiểu hơn về những điểm hạn chế về bảo hộ quyền tác giả đối với chương trình máy tính, bài viết xin đưa ra một số lưu ý về bảo hộ quyền tác giả đối với chương trình máy tính dưới góc độ thực tiễn sau đây.

1. Tính toàn vẹn của chương trình máy tính

Khoản 4 Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam quy định: “Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc; không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả”. Đề giải thích rõ hơn về quy định trên, Khoản 3 Điều 20 Nghị định 22/2018/NĐ-CP đã nêu rõ: “Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén tác phẩm quy định tại khoản 4 Điều 19 của Luật sở hữu trí tuệ là việc không cho người khác sửa chữa, cắt xén tác phẩm hoặc sửa chữa, nâng cấp chương trình máy tính trừ trường hợp có thoả thuận của tác giả”. Mặc dù quy định nêu trên giúp đảm bảo quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm nói chung, tuy nhiên đối với chương trình máy tính, việc áp dụng quy định này không đạt được hiệu quả như mong muốn bởi những lí do dưới đây.

Thứ nhất, chương trình máy tính có thể được thường xuyên cập nhật. Khác với các đối tượng được bảo hộ quyền tác giả khác, chương trình máy tính được ứng dụng rộng rãi trong quá trình sản xuất, làm việc của con người nên thường xuyên được cải tiến, nâng cấp với chu kỳ ngắn, trong vòng vài tháng hoặc một năm một lần. Bên cạnh đó, chương trình máy tính thường được tạo ra bởi nhóm lập trình viên, số lượng có thể từ vài người cho đến cả trăm người. Trong quá trình xây dựng, sáng tạo nên chương trình máy tính lẫn quá trình cập nhật phiên bản mới của chương trình máy tính, những người trực tiếp sửa chữa, thay đổi, sáng tạo những chức năng của chương trình máy tính có thể có sự thay đổi, không phải là những người ban đầu. Khi đó, nếu muốn thay đổi, nâng cấp chương trình, chủ sở hữu quyền tác giả phải có được sự đồng ý của tất cả đồng tác giả, gây nên sự phiền phức và rắc rối không nhỏ.

Thứ hai, có thể thấy rằng trong trường hợp tác giả (lập trình viên) không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả (nhà sản xuất chương trình máy tính), thì chủ sở hữu quyền tác giả sẽ bị hạn chế sự tự do thay đổi, cải tiến, nâng cấp chương trình máy tính để đưa ra thị trường. Các tác giả có thể sử dụng quyền bảo vệ toàn vẹn tác phẩm để ngăn cản chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện nâng cấp chương trình máy tính, ngăn cản những lập trình viên khác gia nhập thực hiện công việc chỉnh sửa, cải tiến chương trình máy tính. Trong khi đó, thông thường các lập trình viên làm việc theo hợp đồng lao động với nhà sản xuất chương trình máy tính, việc thay đổi người để chỉnh sửa, nâng cấp chương trình là sự thay đổi tất nhiên. Trên thực tế, trong thời đại công nghệ thay đổi nhanh chóng hiện nay, quy định này đã làm mất đi tính chủ động cũng như ưu thế tiên phong trên thị trường của chủ sở hữu quyền tác giả.

Quyền bảo vệ toàn vẹn tác phẩm là quyền nhân thân và không thể chuyển giao, tuy nhiên đối với đặc điểm kỹ thuật của chương trình máy tính, quy định của pháp luật Việt Nam như trên vẫn chưa đạt được sự hợp lý và hiệu quả thực tiễn.

2. Nội dung và dữ liệu đi kèm chương trình máy tính không được bảo hộ cùng với chương trình máy tính

Nội dung và dữ liệu của chương trình máy tính sẽ không được tự động bảo hộ đồng thời với việc bảo hộ chương trình máy tính. Trong trường hợp chương trình máy tính có bảo gồm dữ liệu, ví dụ như các nền tảng chỉnh sửa hình ảnh có sẵn những hình minh họa hoặc các họa tiết, hình họa để thêm vào hình ảnh của người sử dụng, hoặc các nền tảng đọc sách có chứa văn bản sách viết hoặc băn ghi sách nói,…thì chỉ bản thân chương trình máy tính đó được bảo hộ (mã nguồn hoặc mã máy) mà không bao gồm những dữ liệu đi kèm.

Như vậy, trường hợp tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả có nhu cầu bảo hộ chương trình máy tính kèm theo nội dung dữ liệu thì ngoài việc đăng ký bảo hộ chương trình máy tính, tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả cần phải đăng ký quyền tác giả đối với nội dung và dữ liệu đi kèm dưới hình thức phù hợp.

3. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả đối với chương trình máy tính

Thời hạn bảo hộ của chương trình máy tính không được quy định riêng mà nằm trong quy định chung tại Điểm b Khoản 2 Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ. Theo đó, chương trình máy tính có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết.

Xét thấy tình hình thực tiễn thay đổi nhanh chóng của công nghệ thông tin, việc quy định thời hạn bảo hộ như trên đối với chương trình máy tính là quá dài, không thực tế so với vòng đời sản phẩm chương trình máy tính. Quy định này có thể là rào cản cho sự sáng tạo, hạn chế sự cạnh tranh của những sản phẩm công nghệ.

4. Phạm vi bảo hộ quyền tác giả đối với chương trình máy tính

Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy định bảo hộ chương trình máy tính dưới dạng mã nguồn và mã máy. Việc quy định này mang tính khái quát cao song lại chưa có những quy định chi tiết, cụ thể hơn về việc bảo hộ các yếu tố bên trong một chương trình máy tính, cụ thể là cấu trúc của chương trình. Mặc dù trong quá trình xây dựng, cấu trúc cũng có thể thay đổi, tuy nhiên có những phần trong chương trình phản ánh cách tư duy sáng tạo cũng như thói quen sử dụng, mang dấu ấn riêng của tác giả, ví dụ như cách tổ chức, trình sự sắp xếp, menu lệnh, giao diện,… Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam cũng chưa có sự phân loại chương trình máy tính thành các loại có chức năng, mục tiêu khác biệt nhau như hệ điều hành, phần mềm lập trình, phần mềm ứng dụng.

Trên đây là nội dung bài viết “Một số lưu ý về bảo hộ quyền tác giả đối với chương trình máy tính”. Bản Quyền Việt Nam hy vọng bài viết này có ích với bạn đọc.

Trân trọng.

Bảo hộ quyền tác giả đối với chương trình máy tính

Công nghệ thông tin đang thay đổi đời sống của con người từng ngày, từng giờ. Trong xu hướng phát triển của thế giới về công nghệ, những sản phẩm phần mềm, chương trình máy tính được làm ra ngày càng nhiều để đáp ứng những nhu cầu sản xuất, đời sống. Tuy nhiên, phần mềm máy tính có những đặc thù là dễ tiếp cận, phổ biến, dễ sao chép, vậy việc bảo hộ bản quyền của chương trình máy tính được thực hiện như thế nào? Chúng tôi xin cung cấp thông tin về vấn đề bảo hộ quyền tác giả đối với chương trình máy tính tại Việt Nam cho bạn đọc thông qua bài viết dưới đây.

1. Chương trình máy tính là gì và được bảo hộ dưới hình thức nào?

Về định nghĩa chương trình máy tính, Khoản 1 Điều 22 Luật Sở hữu trí tuệ quy định:

“Chương trình máy tính là tập hợp các chỉ dẫn được thể hiện dưới dạng lệnh, mã, lược đồ hoặc dạng khác, khi gắn vào một phương tiện, thiết bị được vận hành bằng ngôn ngữ lập trình máy tính thì có khả năng làm cho máy tính hoặc thiết bị thực hiện được công việc hoặc đạt được kết quả cụ thể. Chương trình máy tính được bảo hộ như tác phẩm văn học, dù được thể hiện dưới dạng mã nguồn hay mã máy.”

Chương trình máy tính là một loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả, được ghi nhận tại Điểm g Khoản 1 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ. Tại Việt Nam, chương trình máy tính được bảo hộ như tác phẩm văn học mà không được bảo hộ dưới dạng đối tượng quyền sở hữu công nghiệp. Cụ thể, tại Khoản 2 Điều 59 Luật Sở hữu trí tuệ ghi nhận chương trình máy tính là một trong những đối tượng không được bảo hộ dưới danh nghĩa sáng chế.

Tuy nhiên, chương trình máy tính vẫn có khả năng được bảo hộ dưới danh nghĩa sáng chế trong trường hợp đặc biệt. Trong Quy chế thẩm định đơn đăng ký sáng chế được đính kèm theo Quyết định số 487/QĐ-SHTT ngày 31/3/2010 do Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam ban hành tại mục 5.8.2.5 hướng dẫn xác định đối tượng được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế liên quan đến chương trình máy tính đã nêu rõ:

“Sáng chế liên quan đến chương trình máy tính là một dạng “sáng chế được thực hiện bởi máy tính”, cụm từ này nhằm chỉ các đối tượng liên quan đến máy tính, mạng máy tính hoặc các thiết bị lập trình được khác mà thoạt nhìn một hoặc nhiều dấu hiệu của đối tượng yêu cầu bảo hộ được thực hiện bởi (các) chương trình. Mặc dù chương trình máy tính thuộc danh mục các đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế nhưng nếu đối tượng yêu cầu bảo hộ có đặc tính kỹ thuật và thực sự là một giải pháp kỹ thuật, nhằm giải quyết một vấn đề kỹ thuật bằng một phương tiện kỹ thuật để tạo ra một hiệu quả kỹ thuật thì nó có thể được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế.”

2. Điều kiện bảo hộ quyền tác giả đối với chương trình máy tính

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, chương trình máy tính được bảo hộ như là bảo hộ một tác phẩm văn học. Chương trình máy tính muốn được công nhận để được bảo hộ quyền tác giả cần phải thỏa mãn những tiêu chí cụ thể như sau:

Một là, tính nguyên gốc của tác phẩm. Tính nguyên gốc của tác phẩm được hiểu là tác phẩm được hình thành do chính sự lao động sáng tạo của tác giả, không sao chép của người khác. Tính nguyên gốc không đồng nhất với tính mới của tác phẩm. Hai chương trình máy tính của hai tác giả khác nhau mặc dù giống nhau nhưng vẫn được bảo hộ quyền tác giả nếu như tác giả của hai chương trình đó đã sáng tạo ra chúng một cách hoàn toàn độc lập, không sao chép của nhau.

Hai là, chương trình máy tính phải được định hình dưới một dạng vật chất nhất định. Theo Khoản 3 Điều 3 Nghị định 22/2018/NĐ – CP, định hình là sự biểu hiện bằng chữ viết, các ký tự khác, đường nét, hình khối, bố cục, màu sắc, âm thanh, hình ảnh hoặc sự tái hiện âm thanh, hình ảnh dưới dạng vật chất nhất định để từ đó có thể nhận biết, sao chép hoặc truyền đạt. Bên cạnh đó, hình thức thông điệp dữ liệu thông qua phương tiện điện tử cũng là được coi một dạng biểu hiện của tác phẩm1. Chương trình máy tính được viết bằng các ngôn ngữ lập trình khác nhau, cấu thành bởi các chữ viết và ký tự thường dùng trong văn bản viết và phần lớn được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu. Chương trình máy tính được bảo hộ dù ở dạng mã nguồn hay mã máy.

Ba là, tiêu chí về chủ thể của quyền tác giả. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả của chương trình máy tính phải là một trong những đối tượng sau:

  • Tổ chức, cá nhân có quốc tịch Việt Nam; 
  • Tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam mà chưa được công bố ở bất kỳ nước nào hoặc được công bố đồng thời tại Việt Nam trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày tác phẩm đó được công bố lần đầu tiên ở nước khác; 
  • Tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Khi đáp ứng đủ ba điều kiện trên, chương trình máy tính được bảo hộ quyền tác giả tự động mà không phải tiến hành bất kì thủ tục nào. Tuy nhiên, trên thực tế, nếu tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả không chủ động thực hiện thủ tục đăng ký bảo hộ quyền tác giả thì khi có tranh chấp xảy ra, tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả sẽ gặp phải nhiều khó khăn và mất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc cho việc chứng minh quyền sở hữu đối với chương trình máy tính. Bên cạnh đó, chương trình máy tính là đối tượng có giá trị kinh tế cao, để thuận lợi cho hoạt động chuyển nhượng, li-xăng quyền tác giả thì việc đăng ký quyền tác giả là điều kiện cơ bản nhất, tạo cơ sở pháp lý rõ ràng để thực hiện giao dịch. Do đó các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả nên thực hiện thủ tục đăng ký quyền tác giả sớm nhất có thể.

Trên đây là nội dung bài viết “Bảo hộ quyền tác giả đối với chương trình máy tính”. Bản Quyền Việt Nam hy vọng bài viết này có ích với bạn đọc.

Trân trọng.

 1Điều 119 Bộ luật dân sự 2015 về Hình thức giao dịch dân sự
1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.
Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.
2. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.

Sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao

Trong những năm gần đây, vấn đề sử dụng các tác phẩm có sẵn làm chất liệu để tạo ra các sản phẩm nghệ thuật mới đang gây ra nhiều tranh cãi và trăn trở cho các tác giả và cả những người sáng tạo nghệ thuật. Vậy trong những trường hợp nào, người sử dụng tác phẩm phải xin phép hay trả tiền cho tác giả và trường hợp nào thì không? Trong bài viết này, chúng tôi sẽ tập trung làm rõ những trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố của người khác không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao.

1. Định nghĩa tác phẩm đã công bố theo Luật sở hữu trí tuệ

Theo quy định tại khoản 2 Điều 20 Nghị định 22/2018/NĐ-CP về “Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan”, tác phẩm đã công bố được hiểu là tác phẩm đã được phát hành đến công chúng với số lượng bản sao hợp lý để đáp ứng nhu cầu của công chúng tùy theo bản chất của tác phẩm, do tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện hoặc do cá nhân, tổ chức khác thực hiện với sự đồng ý của tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả; việc công bố tác phẩm nêu trên không bao gồm việc trình diễn một tác phẩm sân khấu, điện ảnh, âm nhạc; đọc trước công chúng một tác phẩm văn học; phát sóng tác phẩm văn học, nghệ thuật; trưng bày tác phẩm tạo hình; xây dựng công trình từ tác phẩm kiến trúc.

2. Quy định của pháp luật Việt Nam về những trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố của người khác không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao

Theo quy định tại Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009 và năm 2022 (“Luật SHTT”) các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao bao gồm:

  • Tự sao chép một bản để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại. Quy định này không áp dụng trong trường hợp sao chép bằng thiết bị sao chép;
  • Sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại;
  • Sử dụng hợp lý tác phẩm để minh họa trong bài giảng, ấn phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng nhằm mục đích giảng dạy. Việc sử dụng này có thể bao gồm việc cung cấp trong mạng máy tính nội bộ với điều kiện phải có các biện pháp kỹ thuật để bảo đảm chỉ người học và người dạy trong buổi học đó có thể tiếp cận tác phẩm này;
  • Sử dụng tác phẩm trong hoạt động công vụ của cơ quan nhà nước;
  • Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận, giới thiệu hoặc minh họa trong tác phẩm của mình; để viết báo, sử dụng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát sóng, phim tài liệu;
  • Sử dụng tác phẩm trong hoạt động thư viện không nhằm mục đích thương mại, bao gồm sao chép tác phẩm lưu trữ trong thư viện để bảo quản, với điều kiện bản sao này phải được đánh dấu là bản sao lưu trữ và giới hạn đối tượng tiếp cận theo quy định của pháp luật về thư viện, lưu trữ; sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép cho người khác phục vụ nghiên cứu, học tập; sao chép hoặc truyền tác phẩm được lưu giữ để sử dụng liên thông thư viện thông qua mạng máy tính, với điều kiện số lượng người đọc tại cùng một thời điểm không vượt quá số lượng bản sao của tác phẩm do các thư viện nói trên nắm giữ, trừ trường hợp được chủ sở hữu quyền cho phép và không áp dụng trong trường hợp tác phẩm đã được cung cấp trên thị trường dưới dạng kỹ thuật số;
  • Biểu diễn tác phẩm sân khấu, âm nhạc, múa và các loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hóa, hoạt động tuyên truyền cổ động không nhằm mục đích thương mại;
  • Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm mỹ thuật, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó, không nhằm mục đích thương mại;
  • Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng cá nhân, không nhằm mục đích thương mại;
  • Sao chép bằng cách đăng tải lại trên báo, ấn phẩm định kỳ, phát sóng hoặc các hình thức truyền thông khác tới công chúng bài giảng, bài phát biểu, bài nói khác được trình bày trước công chúng trong phạm vi phù hợp với mục đích thông tin thời sự, trừ trường hợp tác giả tuyên bố giữ bản quyền;
  • Chụp ảnh, ghi âm, ghi hình, phát sóng sự kiện nhằm mục đích đưa tin thời sự, trong đó có sử dụng tác phẩm được nghe thấy, nhìn thấy trong sự kiện đó;
  • Người khuyết tật nhìn, người khuyết tật không có khả năng đọc chữ in và người khuyết tật khác không có khả năng tiếp cận tác phẩm để đọc theo cách thông thường (sau đây gọi là người khuyết tật), người nuôi dưỡng, chăm sóc cho người khuyết tật, tổ chức đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ sử dụng tác phẩm theo quy định của Luật SHTT.

3. Những lưu ý khi sử dụng tác phẩm đã công bố của người khác không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao

Người sử dụng cần lưu ý những nội dung sau:

  • Việc sử dụng không được mâu thuẫn với việc khai thác bình thường tác phẩm;
  • Việc sử dụng không được gây thiệt hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả;
  • Việc sao chép tác phẩm không áp dụng đối với tác phẩm kiến trúc, tác phẩm mỹ thuật, chương trình máy tính; việc làm tuyển tập, hợp tuyển các tác phẩm.

Trên đây là bài viết Sử dụng tác phẩm đã công bố của người khác không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm biên dịch

Đi đôi với sự phát triển của nền kinh tế hiện nay là sự giao thoa các nền văn hóa giữa các quốc gia, và vì thế, con người có nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu về tiếng nói, chữ viết, con người, các tác phẩm… của các nước khác ngày càng nhiều. Để việc nghiên cứu được dễ dàng hơn, các tác phẩm biên dịch dần dần được ra đời. Vậy, bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm biên dịch như thế nào, hãy cùng VCD tìm hiểu về vấn đề này qua bài viết dưới đây.

1. Hiểu như thế nào là tác phẩm biên dịch?

Biên dịch là quá trình dịch văn bản viết bằng một ngôn ngữ nguồn sang một ngôn ngữ khác mà không làm mất đi ý nghĩa gốc ban đầu. Người biên dịch sẽ chuyển tải trung thực nội dung của một tác phẩm gốc từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác trong tác phẩm dịch. Việc biên dịch không phải là một công việc chuyển ngữ máy móc mà còn đòi hỏi người thực hiện phải biết cách vận dụng ngôn ngữ linh hoạt, am hiểu văn hoá của quốc gia sử dụng loại ngôn ngữ đó và có kỹ năng viết tốt để chuyển ngữ mượt mà, thu hút. Quá trình biên dịch mặc dù phải đảm bảo trung thực nhưng không hạn chế thể hiện tính sáng tạo của người biên dịch trong quá trình tư duy, vận dụng ngôn ngữ và đảm bảo trong khuôn khổ nội dung tác phẩm.

Tác phẩm biên dịch là tác phẩm được dịch từ các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học từ các nền văn hóa khác nhau và được hình thành từ quá trình làm việc, tư duy, sáng tạo của người biên dịch.

2. Tác phẩm biên dịch có phải là tác phẩm phái sinh?

Tác phẩm biên dịch được coi là tác phẩm phái sinh từ tác phẩm gốc. Theo Khoản 8 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ, tác phẩm phái sinh“là tác phẩm được sáng tạo trên cơ sở một hoặc nhiều tác phẩm đã có thông qua việc dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, phóng tác, biên soạn, chú giải, tuyển chọn, cải biên, chuyển thể nhạc và các chuyển thể khác”.

Một tác phẩm biên dịch là tác phẩm “phái sinh” từ tác phẩm gốc nếu thỏa mãn các dấu hiệu sau:

  • Được hình thành dựa trên sự kế thừa từ một tác phẩm đã có;
  • Tác phẩm phái sinh không phải bản sao của tác phẩm gốc

Pháp luật về quyền tác giả không bảo hộ nội dung ý tưởng mà chỉ bảo hộ hình thức thể hiện của ý tưởng, vậy nên, trong nhiều trường hợp, hình thức thể hiện của tác phẩm phái sinh phải khác biệt hoàn toàn hoặc khác biệt từng phần với hình thức thể hiện của tác phẩm gốc;

  • Có sự sáng tạo

Sự sáng tạo của tác phẩm biên dịch thể hiện ở việc lựa chọn, sắp xếp, sử dụng ngôn ngữ để thể hiện được nội dung cũng như tư tưởng, tình cảm của tác giả trong tác phẩm gốc; tác phẩm do dịch giả trực tiếp sáng tạo bằng sự lao động trí tuệ của mình mà không sao chép của người khác;

  • Dấu ấn của tác phẩm gốc trong tác phẩm phái sinh:

Cho dù tác phẩm phái sinh được sáng tạo nguyên gốc nhưng vẫn phải đảm bảo có dấu ấn của tác phẩm gốc. Có nghĩa là khi nhận biết tác phẩm phái sinh thì công chúng phải liên tưởng đến tác phẩm gốc, sự liên tưởng này được thể hiện qua nội dung, cốt truyện, tuyến nhân vật… của tác phẩm gốc.

Tác giả tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ những nội dung có tính nguyên gốc do họ sáng tạo và tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để phái sinh. Việc tạo ra, khái thác, sử dụng tác phẩm phái sinh phải được sự cho phép của chủ sở hữu tác phẩm gốc.

Vậy, với câu hỏi tác phẩm biên dịch có phải tác phẩm phái sinh không, thì câu trả lời ở đây là có thể, với điều kiện đáp ứng các dấu hiệu của tác phẩm phái sinh như đã trình bày ở bên trên.

3. Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm biên dịch

Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, tác phẩm biên dịch được bảo hộ với điều kiện như sau:  

  • Tác phẩm biên dịch phải do dịch giả (được coi là tác giả của tác phẩm phái sinh) trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác.
  • Chỉ chủ sở hữu quyền tác giả mới có quyền làm tác phẩm phái sinh, trong đó bao gồm tác phẩm dịch. Quyền làm tác phẩm phái sinh là một trong những quyền tài sản thuộc quyền tác giả, được quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ). Theo đó, các tổ chức, cá nhân muốn làm tác phẩm biên dịch phải được sự đồng ý của tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả của tác phẩm ban đầu được dùng để làm tác phẩm phái sinh, trừ các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao tại Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ.
  • Quyền đặt tên cho tác phẩm không áp dụng đối với tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác (theo Khoản 1 Điều 20 Nghị định 22/2018/NĐ-CP). Do vậy, dịch giả không được phép tự đặt tên cho tác phẩm biên dịch mà phải sử dụng tên của tác phẩm gốc dịch sang ngôn ngữ của tác phẩm dịch và lấy đó làm tên của tác phẩm dịch.
  • Tác phẩm phái sinh không được gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm gốc được dùng để làm tác phẩm phái sinh. Tại Khoản 2 Điều 14 Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi bổ sung 2009 quy định Tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ theo quy định tại khoản 1 Điều này nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh.   

4. Dịch vụ hỗ trợ bản quyền của VCD

Với đội ngũ chuyên gia pháp lý nhiều kinh nghiệm, VCD tự tin trong việc hỗ trợ Khách hàng các vấn đề trong lĩnh vực bản quyền. Với phương châm luôn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Khách hàng, VCD cố gắng và đảm bảo hỗ trợ Khách hàng và triển khai công việc một cách nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả nhất, thường xuyên báo cáo tiến trình vụ việc cũng như đưa ra kế hoạch hành động tiếp theo để Khách hàng có thể dễ dàng theo dõi và đánh giá kết quả công việc. Khách hàng hoàn toàn có thể tin tưởng và an tâm khi sử dụng dịch vụ của VCD.

Trên đây là bài viết “Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm biên dịch”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Quyền tác giả là gì? Những đối tượng nào được coi là chủ sở hữu quyền tác giả?

Trong đời sống xã hội, về nguyên tắc chủ thể nào tạo ra một vật thì sẽ có quyền sở hữu đối với vật đó, tuy nhiên từ thực tiễn cho thấy việc hình thành lên quyền sở hữu đối với một đối tượng nào đó thì sẽ có đa dạng các cách thức khác nhau với đa dạng các chủ thể có quyền sở hữu. Nhất là trong quyền tác giả, với đặc thù của mình, quyền tác giả có thể được xác lập quyền sở hữu đối với nhiều đối tượng khác nhau, vấn đề đặt ra là những đối tượng nào được coi là chủ sở hữu quyền tác giả? Bạn đọc hãy cùng Bản Quyền Việt Nam theo dõi bài viết “Quyền tác giả là gì? Những đối tượng nào được coi là chủ sở hữu quyền tác giả?” dưới đây.

1.Khái niệm quyền tác giả

Theo khoản 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 thì “quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”. Quyền tác giả đối với tác phẩm quy định tại Luật này bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản.

Quyền nhân thân bao gồm các quyền sau đây:

  • Tác giả có quyền chuyển quyền sử dụng quyền đặt tên tác phẩm cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao quyền tài sản quy định tại khoản 1 Điều 20 của Luật này;
  •  Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;
  • Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;
  • Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc; không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

Bên cạnh quyền nhân thân, quyền tác giả còn bao gồm quyền tài sản được pháp luật quy định, cụ thể:

  • Làm tác phẩm phái sinh;
  • Biểu diễn tác phẩm trước công chúng trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các bản ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào tại địa điểm mà công chúng có thể tiếp cận được nhưng công chúng không thể tự do lựa chọn thời gian và từng phần tác phẩm;
  • Phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng thông qua bán hoặc hình thức chuyển giao quyền sở hữu khác đối với bản gốc, bản sao tác phẩm dưới dạng hữu hình, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 Điều 20 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật sở hữu trí tuệ 2022;
  • Phát sóng, truyền đạt đến công chúng tác phẩm bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác, bao gồm cả việc cung cấp tác phẩm đến công chúng theo cách mà công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do họ lựa chọn;
  • Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính, trừ trường hợp chương trình máy tính đó không phải là đối tượng chính của việc cho thuê.

2. Đối tượng chủ sở hữu quyền tác giả

Căn cứ nội dung sửa đổi bởi khoản 11 Điều 1 Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 có hiệu lực từ ngày 01/01/2023 được sửa đổi, bổ sung Điều 36 Chủ sở hữu quyền tác giả như sau “Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân nắm giữ một, một số hoặc toàn bộ quyền quy định tại khoản 3 Điều 19 và khoản 1 Điều 20 của Luật này.” Theo đó, chủ sở hữu quyền tác giả có quyền Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm toàn bộ quyền tài sản quy định tại khoản 1 điều 20 luật sở hữu trí tuệ 2005.

Chủ sở hữu quyền tác giả bao gồm những đối tượng cụ thể dưới đây:

  • Chủ sở hữu quyền tác giả là tác giả
    • Trong trường hợp này, toàn bộ quyền nhân thân và quyền tài sản có được từ tác phẩm sẽ thuộc về tác giả.
    • Tác giả của một tác phẩm đồng thời được thừa nhận là chủ sở hữu của tác phẩm đó nếu tác giả sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật của mình để sáng tạo ra tác phẩm mà không phải thực hiện theo nhiệm vụ hoặc theo hợp đồng giao việc hoặc văn bản giao kết khác có giá trị tương đương.
  • Chủ sở hữu quyền tác giả là các đồng tác giả
    • Đồng tác giả là những tác giả cùng tham gia sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học. Trường hợp có từ hai người trở lên cùng trực tiếp sáng tạo tác phẩm với chủ ý là sự đóng góp của họ được kết hợp thành một tổng thể hoàn chỉnh thì những người đó là các đồng tác giả. Các đồng tác giả là chủ sở hữu chung đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học và được hưởng các quyền của tác giả (bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản). Các đồng tác giả cũng có các quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm như tác giả thông thường. Trong trường hợp việc sáng tạo tác phẩm theo nhiệm vụ được giao hoặc theo hợp đồng từ cơ quan, tổ chức thì quyền tài sản thuộc về cơ quan, tổ chức giao việc, còn quyền nhân thân thuộc về các đồng tác giả.
    • Các đồng tác giả sáng tạo ra tác phẩm nếu có phần riêng biệt có thể tách ra sử dụng độc lập mà không làm phương hại đến phần của các đồng tác giả khác thì có các quyền nhân thân và quyền tài sản đối với phần riêng biệt đó.
  • Chủ sở hữu quyền tác giả là cơ quan, tổ chức giao nhiệm vụ cho tác giả tạo ra tác phẩm
    • Đây là trường hợp tác giả sáng tạo ra tác phẩm theo nhiệm vụ chuyên môn do cơ quan, tổ chức nơi mình làm việc giao. Tác giả là thành viên thuộc cơ quan, tổ chức đó và nhận nhiệm vụ sáng tạo tác phẩm theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức nhưng không là chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm. Trong trường hợp này, tác giả chỉ nắm giữ những quyền nhân thân thuộc quyền tác giả đối với tác phẩm.
    • Cơ quan, tổ chức giao nhiệm vụ sáng tạo tác phẩm là chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm, nắm giữ, một, một số hoặc toàn bộ các quyền bao gồm các quyền tài sản và quyền công bố tác phẩm, quyền cho phép người khác công bố tác phẩm.
  • Chủ sở hữu quyền tác giả là cá nhân, tổ chức giao kết hợp đồng
    • Các cá nhân, tổ chức giao kết hợp đồng sáng tạo với tác giả để tác giả tạo ra tác phẩm theo hợp đồng đã giao kết là chủ sở hữu quyền tài sản đối với tác phẩm đó.
    • Nếu chỉ một cơ quan, tổ chức hoặc một cá nhân giao kết hợp đồng đó thì chỉ riêng tổ chức hoặc cá nhân hoặc cơ quan đó là chủ sở hữu quyền tài sản đối với tác phẩm. Ngược lại, nếu có nhiều tổ chức hay nhiều cá nhân cùng giao kết một hợp đồng sáng tạo ra tác phẩm với tác giả thì sẽ là đồng chủ sở hữu đối với các quyền tài sản.
  • Chủ sở hữu quyền tác giả là người được thừa kế quyền tác giả
    • Tổ chức, cá nhân được thừa kế quyền tác giả theo quy định của pháp luật về thừa kế là chủ sở hữu tác phẩm đó. Trong đó, chỉ người nào được thừa kế quyền tác giả của người để lại thừa kế là chủ sở hữu mới là chủ sở hữu đối với tác phẩm được thừa kế.
    • Nếu có nhiều người thừa kế là chủ sở hữu đối với tác phẩm mà người để lại thừa kế không phân định phần quyền của mỗi người thì họ được xác định là đồng chủ sở hữu chung hợp nhất. Nếu người để lại thừa kế đã xác định cụ thể về phần quyền mà mỗi người thừa kế được hưởng thì mỗi người là chủ sở hữu đối với riêng phần quyền đó.
  • Chủ sở hữu quyền tác giả là người được chuyển giao quyền
    • Tổ chức, cá nhân được chuyển giao một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản và quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm, quyền đặt tên cho tác phẩm theo thoả thuận trong hợp đồng là chủ sở hữu quyền tác giả.
  • Chủ sở hữu quyền tác giả là nhà nước

    Nhà nước là chủ sở hữu quyền tác giả đối với các tác phẩm sau đây:
    • Tác phẩm còn trong thời hạn bảo hộ mà chủ sở hữu chết không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận di sản hoặc không được quyền hưởng di sản.
    • Tác phẩm được sáng tạo do cơ quan sử dụng ngân sách nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ, đấu thầu.
    • Tác phẩm được chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu cho Nhà nước.

Trên đây là nội dung bài viết Quyền tác giả là gì? Những đối tượng nào được coi là chủ sở hữu quyền tác giả”. Bản Quyền Việt Nam hy vọng bài viết này có ích với bạn đọc.

Trân trọng,

Điều kiện bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm báo điện tử ở Việt Nam hiện nay

Hiện nay, báo chí tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống, trở thành một trong những động lực quan trọng cho sự phát triển của xã hội. Vì những ưu điểm nổi bật của mình nên loại hình này hiện nay đang bị xâm phạm quyền tác giả một cách đáng báo động. Vì vậy việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm báo điện tử là vô cùng cần thiết, tuy nhiên, không phải mọi tác phẩm báo điện tử nào cũng đều được bảo hộ mà chỉ có những tác phẩm báo điện tử đáp ứng một số tiêu chí nhất định mới là đối tượng bảo hộ của quyền tác giả. Bài viết dưới đây, Bản Quyền Việt Nam sẽ gửi tới bạn đọc nội dung các điều kiện để được bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm báo điện tử ở Việt Nam hiện nay.

I. Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm báo điện tử là gì?

Báo điện tử là loại hình báo chí được xây dựng dưới hình thức một trang website và phát hành dựa trên nền tảng internet. Báo điện tử được xuất bản bởi tòa soạn điện tử, còn người đọc báo dựa trên máy tính, điện thoại di động, máy tính bảng… có kết nối internet.

Theo khoản 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2022) thì quyền tác giả nói chung được hiểu như một tập hợp các quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả. Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Theo khái niệm trên, có thể hiểu, luật thừa nhận hai chủ thể có quyền tác giả là tác giả của tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả. Theo quy định này thì cá nhân có thể là chủ sở hữu quyền tác giả hay tác giả của tác phẩm hoặc cả hai tư cách đó.

Bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm báo điện tử là tổng hợp các chế định pháp lý nhằm bảo hộ bằng pháp luật quyền, lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm báo điện tử. Bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm điện tử tạo điều kiện cần thiết các chủ thể quyền tác giả được hưởng đầy đủ quyền và lợi vật chất, đồng thời, còn giúp cho chủ thể tránh khỏi những hành vi xâm phạm có thể xảy ra, tạo động lực để thực hiện sứ mệnh phát triển nền kinh tế tri thức.

II. Điều kiện để được bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm báo điện tử ở Việt Nam

Theo luật pháp Việt Nam, không phải mọi tác phẩm báo điện tử nào cũng đều được bảo hộ mà chỉ có những tác phẩm báo điện tử đáp ứng một số tiêu chí nhất định mới là đối tượng bảo hộ của quyền tác giả. Tác phẩm báo điện tử được bảo hộ khi nội dung của tác phẩm báo điện tử không vi phạm pháp luật, không vi phạm thuần phong mỹ tục, đạo đức, không có hại cho quốc phòng, an ninh quốc gia.

Điều 9 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP quy định, tác phẩm báo chí được bảo hộ là tác phẩm có nội dung độc lập và cấu tạo hoàn chỉnh, bao gồm các thể loại: Phóng sự, ghi nhanh, tường thuật, phỏng vấn, phản ánh, điều tra, bình luận, xã luận, chuyên luận, ký báo chí và các thể loại báo chí khác nhằm đăng, phát trên báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử hoặc các phương tiện khác.

Theo đó, để được công nhận là tác giả đối với tác phẩm báo điện tử cần phải thỏa mãn các tiêu chí cụ thể:

Một là, tiêu chí về tính nguyên thủy (hay còn gọi là tính gốc của sáng tạo thể hiện tác phẩm báo điện tử). Tính nguyên thủy có nghĩa là sự sáng tạo của chính tác giả, không sao chép toàn bộ hoặc một phần cơ bản từ tác phẩm khác, bao gồm: (i) Tính sáng tạo, không phải là cách sắp xếp diễn đạt đơn thuần, bắt chước cách diễn đạt, thể hiện ngôn từ, màu sắc, khuôn mẫu có sẵn trong tác phẩm của người khác; (ii) Tác phẩm báo điện tử được bảo hộ phải là bản gốc (bản đầu tiên của tác phẩm do tác giả sáng tạo ra; (iii) Bảo đảm tính toàn vẹn của tác phẩm báo điện tử.

Hai là, tiêu chí về định hình dưới một dạng vật chất nhất định.

Ba là, tiêu chí về phạm vi chủ thể thông thường được xác định trên cơ sở pháp luật nơi thực hiện hành vi sáng tác hoặc công bố tác phẩm.

Để được bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm báo điện tử thì phải đáp ứng các điều kiện sau: (i) Tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm báo điện tử phải bảo đảm tính nguyên gốc tức là tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ bất cứ một tác phẩm của người khác; (ii) Chỉ bảo hộ hình thức thể hiện tác phẩm báo điện tử chứ không bằng nội dung lý tưởng, điều này có nghĩa là tác phẩm báo điện tử về bảo hộ phải được thể hiện dưới một hình thức nhất định, những tác phẩm báo điện tử mới chỉ là ý tưởng chưa được sáng tạo cụ thể thì không được bảo hộ.

Cơ chế bảo hộ tác phẩm báo điện tử được xác lập tự động sau khi tác phẩm được hoàn thành, việc nộp đơn để được cấp giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả không phải là thủ tục bắt buộc để hưởng quyền tác giả. Tuy nhiên, để bảo vệ tốt nhất cho quyền lợi của mình, đề phòng trường hợp xảy ra tranh chấp, các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả nên thực hiện đăng ký quyền tác giả ngay sau khi hoàn thành tác phẩm. Bởi lẽ, trên thực tế, việc chứng minh quyền tác giả khi chưa đăng ký bảo hộ là rất khó khăn, tốn nhiều thời gian, chi phí và công sức, trong khi đó nếu xảy ra tranh chấp thì tổ chức, cá nhân đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả không có nghĩa vụ phải chứng minh quyền tác giả thuộc về mình. Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả là tài liệu quan trọng, cơ bản nhất để chứng minh quyền tác giả đối với tác phẩm, do đó các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả nên thực hiện thủ tục đăng ký sớm nhất có thể.

Trên đây là nội dung bài viết “Điều kiện để được bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm báo điện tử ở Việt Nam hiện nay”. Bản Quyền Việt Nam hy vọng bài viết này có ích với bạn đọc.

Trân trọng.

Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian

1. Khái niệm tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian

– Tại điểm l khoản 1 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009 và năm 2022 (“Luật SHTT”), tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian thuộc loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả.

– Tại khoản 1 Điều 23 Luật SHTT và Điều 18 Nghị định 22/2018/NĐ-CP, tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian là sáng tạo tập thể trên nền tảng truyền thống của một nhóm hoặc các cá nhân nhằm phản ánh khát vọng của cộng đồng, thể hiện tương xứng đặc điểm văn hoá và xã hội của họ, các tiêu chuẩn và giá trị được lưu truyền bằng cách mô phỏng hoặc bằng cách khác. Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian bao gồm:

  • Truyện, thơ, câu đố (được hiểu là các loại hình nghệ thuật ngôn từ);
  • Điệu hát, làn điệu âm nhạc; Điệu múa, vở diễn, nghi lễ và các trò chơi (được hiểu là các loại hình nghệ thuật biểu diễn như chèo, tuồng, cải lương, múa rối, điệu hát, làn điệu âm nhạc; điệu múa, vở diễn, trò chơi dân gian, hội làng, các hình thức nghi lễ dân gian);
  • Sản phẩm nghệ thuật đồ hoạ, hội hoạ, điêu khắc, nhạc cụ, hình mẫu kiến trúc và các loại hình nghệ thuật khác được thể hiện dưới bất kỳ hình thức vật chất nào.

2. Nguyên tắc chung về bảo hộ quyền quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian

  • Ngoài việc được áp dụng quy định đặc thù đối với loại hình là tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian, việc bảo hộ quyền tác giả đối với loại hình tác phẩm này được áp dụng các quy định chung về bảo hộ quyền tác giả.
  • Ba nguyên tắc cơ bản chi phối lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả bao gồm: Nguyên tắc đối xử quốc gia, Nguyên tắc bảo hộ tự động hay bảo hộ đương nhiên, Nguyên tắc bảo hộ độc lập.
  • Nguyên tắc đối xử quốc gia: Được thể hiện tại Khoản 1 Điều 5 Công ước Berne, theo đó đối với những tác phẩm được Công ước này bảo hộ, các tác giả được hưởng quyền tác giả ở các nước Liên hiệp ngoại trừ quốc gia gốc của tác phẩm, những quyền lợi do luật quốc gia liên quan dành cho công dân nước đó trong hiện tại và trong tương lai cũng như những quyền lợi mà Công ước này đặc biệt quy định. Điều 13 Luật SHTT cũng quy định rằng tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả bao gồm tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo điều ước quốc tế về quyền tác giả mà nước Việt Nam là thành viên.
  • Nguyên tắc bảo hộ tự động hay bảo hộ đương nhiên: Quyền tác giả phát sinh ngay khi tác phẩm được định hình dưới hình thức vật chất nhất định mà không phụ thuộc vào bất kì thủ tục nào như đăng kí, hay phải công bố tác phẩm. Thuật ngữ “hình thức vật chất” được hiểu là bất kì hình thức thể hiện nào mà qua đó công chúng có thể thấy được sự tồn tại của tác phẩm. Khoản 1 Điều 6 Luật SHTT khẳng định điều này, theo đó quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện d­ưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất l­ượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay ch­ưa công bố, đã đăng ký hay ch­ưa đăng ký.
  • Nguyên tắc bảo hộ độc lập: Được thể hiện tại khoản 2 Điều 5 Công ước Berne, theo đó việc hưởng và thực hiện quyền tác giả hoàn toàn độc lập không tuỳ thuộc vào việc tác phẩm có được bảo hộ hay không ở nước gốc của tác phẩm. Do đó, ngoài những quy định của Công ước này, mức độ bảo hộ cũng như các biện pháp khiếu nại đảm bảo cho tác giả để bảo hộ quyền lợi của mình sẽ hoàn toàn do quy định của luật pháp của nước nơi sự bảo hộ được áp dụng.

3. Quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian

  • Tại Điều 18 Nghị định 22/2018/NĐ-CP, tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian là Truyện, thơ, câu đố; Điệu hát, làn điệu âm nhạc; Điệu múa, vở diễn, nghi lễ và các trò chơi được bảo hộ không phụ thuộc vào việc định hình.
  • Tại khoản 2 Điều 23 Luật SHTT và khoản 4 Điều 18 Nghị định 22/2018/NĐ-CP, tổ chức, cá nhân khi sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian phải dẫn chiếu xuất xứ của loại hình tác phẩm đó (cụ thể là chỉ ra nguồn gốc, địa danh của cộng đồng cư dân nơi tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian được hình thành) và bảo đảm giữ gìn giá trị đích thực của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. Việc sử dụng nêu trên bao gồm việc sưu tầm, nghiên cứu, biểu diễn, giới thiệu giá trị đích thực của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian.
  • Thời hạn bảo hộ (quy định tại Điều 27 Luật SHTT): tác phẩm sân khấu, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên, nếu tác phẩm chưa được công bố trong thời hạn hai mươi lăm năm kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là một trăm năm kể từ khi tác phẩm được định hình;
  • Các quyền nhân thân (Đặt tên cho tác phẩm; Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc; không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả) được bảo hộ vô thời hạn.
  • Quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm và các quyền tài sản có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết. Thời hạn bảo hộ chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả.

Trên đây là bài viết “Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Những biện pháp có thể áp dụng để bảo hộ sở hữu trí tuệ

Hiện nay, việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đang ở mức báo động. Và chúng ra có thể dễ thấy điều đó trên thực tế khi mà hàng giả, hàng nhái xuất hiện tràn lan trên các khu chợ dân sinh, các quán tạp hóa hay thậm trí là trong các trung tâm thương mại. Vì vậy, trước thực trạng đó, các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có thể làm gì để bảo hộ sở hữu trí tuệ của mình? Trong bài viết này, chúng tôi sẽ nêu ra và phân tích những biện pháp có thể áp dụng để bảo hộ sở hữu trí tuệ để bạn đọc có thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

1. Biện pháp tự bảo vệ

Biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ là biện pháp do chính chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ thực hiện nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền sở hữu xảy ra hoặc xử lý khi hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã xảy ra. Và theo Điều 198 Luật sở hữu trí tuệ 2005, chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền áp dụng các biện pháp sau đây để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình:

  • Áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ;
  • Yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại;
  • Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan;
  • Khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

2. Biện pháp bảo vệ do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện

  • Biện pháp dân sự: là biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo thủ tục tố tụng dân sự trên cơ sở yêu cầu của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ hoặc tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra, kể cả khi hành vi đó đang bị xử lý bằng biện pháp hành chính hoặc biện pháp hình sự.
  • Biện pháp hình sự:  Là biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được quy định là tội phạm theo thủ tục tố tụng hình sự.

Các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được coi là tội phạm khi có đủ các yếu tố cấu thành một trong các tội quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015 sau:

Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 157) ; Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú; thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều 158); Tội lừa dối khách hàng (Điều 162) ; Tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Điều 170) ; Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 170a) ; Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171) ; Tội vi phạm các quy định về xuất bản phát hành sách, báo; đĩa âm thanh, đĩa hình, băng hình hoặc các ấn phẩm khác (Điều 271).

  • Biện pháp hành chính: là việc cơ quan có thẩm quyền xử lý hành chính các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ, cá nhân, tổ chức khác bị thiệt hại do hành vi xâm phạm hoặc phát hiện hành vi xâm phạm có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm.
  • Biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ: là việc cơ quan có thẩm quyền tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc kiểm tra, giám sát để phát hiện hàng hóa có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

  3. Dịch vụ hỗ trợ bản quyền của VCD         

Với đội ngũ chuyên gia pháp lý nhiều kinh nghiệm, VCD tự tin trong việc hỗ trợ Khách hàng các vấn đề trong lĩnh vực Bản quyền. Với phương châm luôn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Khách hàng, VCD cố gắng và đảm bảo hỗ trợ Khách hàng và triển khai công việc một cách nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả nhất, thường xuyên báo cáo tiến trình vụ việc cũng như đưa ra kế hoạch hành động tiếp theo để Khách hàng có thể dễ dàng theo dõi và đánh giá kết quả công việc. Khách hàng hoàn toàn có thể tin tưởng và an tâm khi sử dụng dịch vụ pháp lý của VCD.

Trên đây là bài viết Những biện pháp có thể áp dụng để bảo hộ sở hữu trí tuệ. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

🌺THÔNG BÁO NGHỈ TẾT ÂM LỊCH 2023🌺

Nhân dịp Tết đến xuân về, Bản quyền Việt Nam gửi tới Quý khách hàng lịch nghỉ tết âm lịch 2023 như sau:

➤ Thời gian nghỉ từ ngày 20/01/2023 (Thứ Sáu) đến hết ngày 29/01/2023 (Chủ nhật)

➤ Thời gian làm trở lại: Ngày 30/01/2023 (Thứ Hai)

Mọi thông tin chi tiết, Quý khách hàng, Đối tác và Cộng sự vui lòng liên hệ Hotline: 0856100294 để được hỗ trợ.

Trân trọng!