Skip to main content

Tác giả: Biên Tập Viên

Quyền tác giả tác phẩm khuyết danh thuộc về ai?

Quyền tác giả đối với tác phẩm khuyết danh là một trường hợp đặc biệt trong lĩnh vực quyền tác giả, bảo hộ cho những tác phẩm không xác định được tác giả khi công bố. Việc bảo hộ dành cho các tác phẩm này đã được đề cập đến trong hệ thống pháp luật về quyền tác giả trong suốt các giai đoạn khác nhau của luật. Một trong những vấn đề được thắc mắc trước tiên đó là quyền tác giả của tác phẩm khuyết danh thuộc về ai.

1. Tác phẩm khuyết danh là gì?

Việc ghi nhận quyền tác giả đối với tác phẩm khuyết danh bắt đầu với việc đưa ra khái niệm, trên cơ sở đó xác định chủ thể quyền và các đặc trưng của việc bảo hộ dạng tác phẩm này. Nhìn chung, luật Việt Nam qua các thời kì đều coi tác phẩm khuyết danh là một bộ phận không thể thiếu trong chế định chung về quyền tác giả. Các thời kì sau đều có sự lặp lại quy định của thời kì trước và ghi nhận thêm một số thay đổi nhỏ, tạo sự khác biệt nhưng không nhiều.

Hiện nay, căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định 17/2023/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan ghi nhận:

“Tác phẩm khuyết danh là tác phẩm không hoặc chưa có tên tác giả (tên khai sinh hoặc bút danh) trên tác phẩm khi công bố.”

Đây có thể coi là khái niệm chính thức của luật hiện hành về tác phẩm khuyết danh.

2. Quyền sở hữu tác phẩm khuyết danh sẽ thuộc về ai?

Theo quy định tại Điều 42 Luật Sở hữu trí tuệ thì chủ sở hữu quyền tác giả là Nhà nước đối với các tác phẩm:

  • Tác phẩm khuyết danh, trừ trường hợp đã có cá nhân, tổ chức đang quản lý tác phẩm đó;
  • Tác phẩm còn thời hạn bảo hộ mà chủ sở hữu quyền tác giả không tồn tại (Chủ sở hữu quyền tác giả chết không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận di sản hoặc không được quyền hưởng di sản);
  • Tác phẩm được Nhà nước nhận chuyển giao quyền sở hữu từ chủ sở hữu quyền tác giả.

Như vậy, Nhà nước sẽ trở thành chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm khuyết danh nếu không có cá nhân, tổ chức đang quản lý tác phẩm đó.

Tuy nhiên, khi thời hạn bảo hộ đối với tác phẩm khuyết danh kết thúc theo quy định tại Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ thì quyền tác giả đối với những tác phẩm khuyết danh nói trên sẽ thuộc về công chúng theo Điều 43 Luật sở hữu trí tuệ.

“1. Tác phẩm đã kết thúc thời hạn bảo hộ theo quy định tại Điều 27 của Luật này thì thuộc về công chúng.”

Vậy chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm khuyết danh là Nhà nước cho đến khi tác phẩm khuyết danh hết thời hạn bảo hộ. Sau khi hết thời hạn bảo hộ, quyền tác giả của tác phẩm khuyết danh sẽ thuộc về công chúng theo quy định của pháp luật,

Trên đây là bài viết “Quyền tác giả tác phẩm khuyết danh thuộc về ai?”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Video Youtube có đăng kí bản quyền được không?

Youtube là một trong những nền tảng xã hội nổi bật nhất hiện này với số lượng người dùng khủng. Trung bình có hơn 500 giờ nội dung được tải lên nền tảng chia sẻ video này mỗi phút. Điều này tương đương với 30.000 giờ nội dung được tải lên/giờ, và 720.000 giờ nội dung/ngày. Với lượng video đăng tải khổng lồ như vậy, vấn đề về bảo vệ bản quyền không bị xâm phạm rất được các tác giả và chủ sở hữu quan tâm khi sử dụng nền tảng này, vậy liệu các video trên Youtube có thể đăng ký bảo hộ quyền tác giả được hay không?

1. Video Youtube là gì?

Video trên YouTube là những video được đăng tải trên Youtube – nền tảng chuyên chia sẻ video trực tuyến. Đây là hình thức sáng tạo nội dung phổ biến và được ưa chuộng nhất hiện nay bởi các tính năng nổi trội và tiện lợi mà YouTube mang lại.

Các video đa dạng về chủ đề từ phim ảnh, ca nhạc, chia sẻ thông tin, kiến thức,… được kiểm duyệt thường xuyên bởi các trụ sở của Youtube đặt tại các nước. Hiện Youtube đã phát triển và có mặt trên hầu hết mọi quốc gia với hơn 50 ngôn ngữ khác nhau trong đó có Tiếng Việt.

Mỗi video đăng trên youtube đều được tác giả, ekip sản xuất đầu tư chỉnh chu, nghiêm túc. Video là kết tinh của một quá trình sáng tạo và chính là đứa con tinh thần của tác giả. Vậy nên các tác giả và chủ sở hữu rất quan tâm về vấn đề bản quyền đối với video mình đăng tải.

2. Video Youtube có đăng kí bản quyền được không?

Tùy thuộc vào nội dung của video bạn sẽ có thể đăng ký bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan phù hợp. Chủ sở hữu bản quyền video có thể sử dụng một hệ thống có tên là Content ID để dễ dàng đăng ký bản quyền youtube, xác định và quản lý nội dung của họ trên youtube hoặc bảo hộ bằng việc đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan cho tác phẩm.

2.1. Đăng ký quyền tác giả đối với video trên Youtube

Thứ nhất, trường hợp người đứng tên đơn đăng ký là tác giả (người sáng tác ra kịch bản, âm thanh, đồ họa… của video) thì có thể đăng ký bản quyền cho video trên YouTube dưới dạng quyền tác giả với tư cách chủ sở hữu quyền tác giả đồng thời là tác giả đối với tác phẩm điện ảnh;

Theo Khoản 1 Điều 21 Luật SHTT quy định “Người làm công việc đạo diễn, biên kịch, quay phim, dựng phim, sáng tác âm nhạc, thiết kế mỹ thuật, thiết kế âm thanh, ánh sáng, mỹ thuật trường quay, thiết kế đạo cụ, kỹ xảo và các công việc khác có tính sáng tạo đối với tác phẩm điện ảnh được hưởng các quyền quy định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều 19 của Luật này và các quyền khác theo thỏa thuận.”

Thứ hai, trường hợp người đăng ký có thể đăng ký quyền tác giả cho video trên YouTube với tư cách là chủ sở hữu quyền tác giả không đồng thời là tác giả đối với tác phẩm điện ảnh trong các trường hợp sau:

  • Người đăng ký giao hoặc ký kết hợp đồng với tác giả;
  • Người đăng ký là người thừa kế quyền tác giả;
  • Người đăng ký là người được chuyển giao quyền tác giả.

2.2. Đăng ký quyền liên quan đối với video trên Youtube

Quyền liên quan theo quy định tại Khoản 3 Điều 4 Luật SHTT được định nghĩa là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng…

Quy định tại Khoản 2 Điều 44 Luật SHTT quy định “Tổ chức, cá nhân sử dụng thời gian, đầu tư tài chính và cơ sở vật chất – kỹ thuật của mình để sản xuất bản ghi âm, ghi hình là chủ sở hữu đối với bản ghi âm, ghi hình đó, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với bên liên quan.”

Vậy, nếu người đứng tên đăng ký là người đầu tư thời gian, tài chính và cơ sở vật chất – kỹ thuật của mình để sản xuất bản ghi âm, ghi hình video trên YouTube thì sẽ có quyền đăng ký bản quyền với tư cách là chủ sở hữu quyền liên quan đối với bản ghi âm, ghi hình đó.

Trên đây là bài viết “Video Youtube có đăng kí bản quyền được không?”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Thời điểm phát sinh quyền tác giả đối với chương trình máy tính

Chương trình máy tính là một trong số các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả, vậy thời điểm phát sinh quyền tác giả đối với chương trình máy tính là vào thời điểm nào? Mời bạn đọc theo dõi bài viết dưới đây của VCD để biết thêm thông tin.

1. Quyền tác giả đối với chương trình máy tính

Về định nghĩa chương trình máy tính, Khoản 1 Điều 22 Luật Sở hữu trí tuệ quy định:

“Chương trình máy tính là tập hợp các chỉ dẫn được thể hiện dưới dạng lệnh, mã, lược đồ hoặc dạng khác, khi gắn vào một phương tiện, thiết bị được vận hành bằng ngôn ngữ lập trình máy tính thì có khả năng làm cho máy tính hoặc thiết bị thực hiện được công việc hoặc đạt được kết quả cụ thể. Chương trình máy tính được bảo hộ như tác phẩm văn học, dù được thể hiện dưới dạng mã nguồn hay mã máy.”

Chương trình máy tính là một loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả, được ghi nhận tại Điểm g Khoản 1 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ. Tại Việt Nam, chương trình máy tính được bảo hộ như tác phẩm văn học mà không được bảo hộ dưới dạng đối tượng quyền sở hữu công nghiệp. Cụ thể, tại Khoản 2 Điều 59 Luật Sở hữu trí tuệ ghi nhận chương trình máy tính là một trong những đối tượng không được bảo hộ dưới danh nghĩa sáng chế.

Quyền tác giả đối với chương trình máy tính được quy định cụ thể lại Điều 12 Nghị định 17/2023/NĐ-CP như sau:

  • Tác giả đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả được hưởng các quyền nhân thân và các quyền tài sản quy định Luật sở hữu trí tuệ.
  • Tác giả không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả được hưởng các quyền nhân thân (trừ quyền công bố tác phẩm); chủ sở hữu quyền tác giả được hưởng các quyền tài sản và quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ.
  • Tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng hợp pháp bản sao chương trình máy tính được sửa lỗi trên bản sao chương trình máy tính đó trong trường hợp cần thiết cho việc sử dụng.
  • Quyền cho thuê chương trình máy tính là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc cho thuê để khai thác, sử dụng có thời hạn.
  • Quyền cho thuê đối với chương trình máy tính không áp dụng trong trường hợp chương trình máy tính đó không phải là đối tượng chủ yếu để cho thuê như chương trình máy tính gắn với việc vận hành bình thường các loại phương tiện giao thông hoặc các máy móc, thiết bị kỹ thuật khác.

2. Thời điểm phát sinh quyền tác giả đối với chương trình máy tính

Theo Điều 6 Luật SHTT căn cứ phát sinh, xác lập quyền sở hữu trí tuệ được quy định như sau:

“1. Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.”

Theo đó, thời điểm để căn cứ phát sinh, xác lập bảo hộ quyền tác giả đối với chương trình máy tính là kể từ lúc chương trình đó được định hình dưới một dạng vật chất nhất định mà không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ và chưa cần phải tiến hành bất kỳ một thủ tục công bố hay đăng ký bảo hộ nào.

Tuy nhiên, để bảo vệ tốt nhất cho quyền lợi của mình, đề phòng trường hợp xảy ra tranh chấp, các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả nên thực hiện đăng ký quyền tác giả ngay sau khi hoàn thành tác phẩm. Bởi lẽ, trên thực tế, việc chứng minh quyền tác giả khi chưa đăng ký bảo hộ là rất khó khăn, tốn nhiều thời gian, chi phí và công sức, trong khi đó nếu xảy ra tranh chấp thì tổ chức, cá nhân đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả không có nghĩa vụ phải chứng minh quyền tác giả thuộc về mình. Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả là tài liệu quan trọng, cơ bản nhất để chứng minh quyền tác giả đối với tác phẩm, do đó các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả nên thực hiện thủ tục đăng ký sớm nhất có thể.

Trên đây là nội dung bài viết “Thời điểm phát sinh quyền tác giả đối với chương trình máy tính”. Bản Quyền Việt Nam hy vọng bài viết này có ích với bạn đọc.

Trân trọng,

Nhạc sĩ sáng tác bài hát được phổ nhạc từ thơ có phải xin phép và trả tiền nhuận bút cho tác giả bài thơ hay không?

Không ít nhà thơ cảm thấy vui mừng khi tác phẩm của mình được phổ nhạc. Từ sự “kết giao” này nhiều bài hát được ra đời, trở thành những ca khúc được nhiều khán giả yêu thích. Tuy nhiên, trước khi các nhạc sĩ phổ nhạc vào những bài thơ, họ có cần sự chấp thuận của tác giả bài thơ đó hay không và có phải trả tiền bản quyền cho họ không? Mời bạn đọc theo dõi bài viết của VCD để biết thêm thông tin.

1. Bài hát phổ nhạc từ thơ là gì? Có phải tác phẩm phái sinh không?

Trong văn chương Việt Nam vốn giàu nhạc tính với âm thanh trầm bổng nên lẩn trong thơ là nhạc. Các loại văn vần trong văn chương nước ta như lục bát, song thất lục bát, hát nói đều đi đôi với ngâm vịnh, xướng hát. Những điệu dân ca như hát ru, hò cũng hay mượn ca dao làm lời.

Do đó, phổ nhạc là nghệ thuật dựa theo lời và ý của bài thơ mà viết thành bài nhạc. Dựa trên lời thơ, bằng sự rung cảm nghệ thuật, các nhạc sĩ không ngừng sáng tạo nên sức sống cho âm nhạc. Điều dễ nhận thấy, các nhạc sĩ khá trung thành với nguyên bản, tên bài thơ đồng thời là tên ca khúc. Nhạc sĩ thường bắt được cái hồn của thơ, không lấy nguyên mẫu từng câu từng chữ, mà chọn lựa sử dụng những câu, những đoạn phù hợp với ý tưởng của mình.

Theo Khoản 8 Điều 4 Luật SHTT “Tác phẩm phái sinh là tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn.

Vậy, tác phẩm nhạc phổ thơ là tác phẩm phái sinh và được bảo hộ theo quy định của pháp luật khi và chỉ khi việc phổ nhạc vào thơ không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm gốc.

2. Có phải xin phép và trả tiền thù lao cho nhà thơ khi phổ nhạc vào thơ không?

Theo quy định của luật SHTT, tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản và quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả.

Mà quyền tài sản được quy định tại Điều 20 Luật SHTT bao gồm:

  • Làm tác phẩm phái sinh;
  • Biểu diễn tác phẩm trước công chúng;
  • Sao chép tác phẩm;
  • Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm;
  • Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác;
  • Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính

Vậy nên việc phổ nhạc vào thơ để sáng tạo nên tác phẩm mới cần có sự đồng ý của chủ sở hữu tác phẩm gốc thì mới được làm, đồng thời, phải trả tiền nhuận bút, thù lao và các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả của bài thơ.

Trên đây là bài viết “Nhạc sĩ sáng tác bài hát được phổ nhạc từ thơ có phải xin phép và trả tiền nhuận bút cho tác giả bài thơ hay không?”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Trích dẫn tác phẩm sao cho hợp lý để không xâm phạm quyền tác giả

Quyền tác giả theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ có quy định về những hành vi ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả, cụ thể là việc trích dẫn hợp lý và sao chép tác phẩm. Tuy nhiên, thế nào là trích dẫn hợp lý tác phẩm theo quy định của luật, mời bạn đọc theo dõi bài viết của VCD để biết thêm thông tin.

1. Trích dẫn tác phẩm là gì?

Trích dẫn là cách để cho người đọc biết rằng bạn đã đưa một số thông tin vào nội dung từ một nguồn khác. Bất cứ khi nào bạn trực tiếp báo giá, tóm tắt, hoặc là diễn giải ý tưởng của các tác giả khác trong nội dung của bạn, điều cần thiết là phải trích dẫn chúng. Việc trích dẫn đúng và đủ cung cấp tất cả các thông tin quan trọng cho người đọc để giúp họ tìm ra nguồn sau này. Thông tin trong trích dẫn bao gồm tên chủ đề, thông tin về tác giả và ngày xuất bản. Nó cũng bao gồm tên nhà xuất bản tác phẩm và số trang

Việc trích dẫn tài liệu đúng quy định có ý nghĩa vô cùng quan trọng, có thể kể đến như:

  • Trích dẫn đúng là cách thể hiện sự tôn trọng đối với tác giả của nguồn tài liệu.
  • Giúp người viết tránh bị coi là đạo văn.
  • Người đọc nếu muốn tìm hiểu sâu hơn thì có thể dễ dàng tìm được tài liệu gốc được trích dẫn.
  • Các các nguồn tham khảo uy tín sẽ khiến thông tin, quan điểm trong bài viết được tăng tính xác thực hơn.
  • Thói quen trích dẫn tốt xây dựng nền tảng vững chắc cho mục tiêu nâng cao khả năng diễn đạt của mình, từ đó giúp cải thiện kĩ năng viết.

2. Trích dẫn tác phẩm sao cho hợp lý để không xâm phạm quyền tác giả

Theo quy định tại Khoản đ Điểm 1 Điều 25 Luật SHTT, các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền bản quyền nhưng phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm bao gồm:

“đ) Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận, giới thiệu hoặc minh họa trong tác phẩm của mình; để viết báo, sử dụng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát sóng, phim tài liệu;”

Các điều kiện để trích dẫn tác phẩm không bị coi làm xâm phạm bản quyền theo quy định của Điều 28 NDD17/2023/NĐ-CP bao gồm các điều kiện sau:

  • Phần trích dẫn chỉ nhằm mục đích giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn đề được đề cập trong tác phẩm của mình.
  • Phần trích dẫn từ tác phẩm được sử dụng để trích dẫn không gây thiệt hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả của tác phẩm được sử dụng để trích dẫn; phù hợp với tính chất, đặc điểm của loại hình tác phẩm được sử dụng để trích dẫn.
  • Việc trích dẫn phải kèm theo chỉ dẫn về nguồn gốc tác phẩm và tên tác giả, nếu tên tác giả được nêu trên tác phẩm sử dụng để trích dẫn.

Như vậy, việc trích dẫn ngoài việc không làm sai ý của tác giả, không gây phương hại đến quyền tác giả và phù hợp với đặc điểm của tác phẩm được sử dụng để trích dẫn thì việc trích dẫn đó phải không nhằm mục đích thương mại. Đồng thời, còn phải đáp ứng đủ các điều kiện mà luật quy định để việc trích dẫn không bị coi là xâm phạm quyền tác giả.

Trên đây là bài viết “Trích dẫn tác phẩm sao cho hợp lý để không xâm phạm quyền tác giả”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Hệ quả của sách “lậu” đối với tác quyền

Sách “lậu” có thể được người tiêu dùng sử dụng một cách vô tình, hoặc cố ý. Đôi khi do người mua không để ý, hoặc sử dụng vì sách lậu sẽ có giá thành rẻ hơn và dễ mua hơn. Tuy nhiên, dù sử dụng vô tình hay có chủ đích, sách lậu đều gây một hậu quả tới người tiêu dùng nói riêng và quyền tác giả nói chung. Bài viết sau của VCD sẽ nêu rõ hơn những hệ quả của sách “lậu” đối với tác quyền.

1. Sách “lậu” là gì?

Sách lậu có thể được hiêu là sách in ấn và phát hành trái pháp luật, tức là không có văn bản hợp pháp chứng minh nguồn gốc tác phẩm và quyền sở hữu đối với tác phẩm trong phạm vị thị trường tối thiểu là Việt Nam, và/hoặc không có giấy phép đăng ký xuất bản hợp pháp.

Theo Khoản 4 Điều 213 Luật SHTT quy định “Hàng hóa sao chép lậu là bản sao được sản xuất mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả hoặc chủ sở hữu quyền liên quan.”

Cũng theo Nghị định 17/2023/NĐ-CP quy định về xác định yếu tố xâm phạm quyền tác giả tại Điểm g Khoản 1 Điều 66: “Xâm phạm quyền sao chép tác phẩm: Nhân bản, tạo bản sao tác phẩm mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu, đồng chủ sở hữu quyền tác giả theo quy định của pháp luật

Vậy nên, hành vi làm sách lậu được coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả theo quy định của pháp luật Việt Nam.

2. Tại sao sách lậu ngày càng có phát triển như vậy?

Việc sản xuất và buôn bán sách lậu giúp các nhà sản xuất thiếu uy tín mờ mắt vì lợi nhuận khổng lồ, đồng thời, người tiêu dùng cũng mua nhiều vì lý do đơn giản – rẻ

Thứ nhất, sách lậu không mất tiền mua bản quyền. Nếu là sách mua bản quyền từ nước ngoài, các công ty sách phải trả thêm tiền dịch, tiền hiệu đính, mà nhiều khi những khoản tiền này không hề nhỏ. Người làm sách giả, sách lậu không phải chi trả tiền cho dịch giả, người hiệu đính, biên tập viên, nhân viên chế bản, họa sĩ trình bày bìa… nên có thể tiết kiệm rất nhiều khoản chi phí.

Thứ hai, sách lậu, sách giả thường kém chất lượng. Họ thường chọn loại giấy xấu hơn, mỏng hơn, kém chất lượng hơn, khổ nhỏ hơn… Tất cả điều này làm giá thành cuốn sách thấp hơn.

Thứ ba, Những xưởng in tư nhân in sách lậu thường là những xưởng in nhỏ, nằm ở vùng xa xôi, với thiết bị máy móc lạc hậu, cũ nát, kém chất lượng. Trong trường hợp bị bắt, bị tịch thu tang vật, chi phí cũng không quá lớn. Những công ty in có uy tín, nằm trong thành phố, thường sẽ có chi phí in ấn cao hơn và đa số đều phải xin giấy phép xuất bản trước khi in sách.

Ngoài ra, ta cũng có thể thấy, việc sách lậu vẫn phát triển và sống tốt trên thị trường một phần cũng là do độc giả nhiều lúc chưa phân biệt được sự khác biệt. Nếu không phải người thường xuyên đi nhà sách, nhiều độc giả hay mua sách theo kiểu “gặp đâu mua đó” và tình trạng này rất dễ đến việc độc giả có thể mua phải sách lậu mà không biết.

3. Hệ quả của sách “lậu” đối với tác quyền

  • Hệ quả của việc sử dụng sách “lậu” đối với độc giả

Người mua sách lậu bị thiệt hại vì bỏ tiền mua 1 sản phẩm kém chất lượng. Sách bị sao chụp mờ khiến chữ nhòe, đứt nét, màu sắc không đồng đều, sử dụng chất lượng thấp, dễ hư hỏng… Thậm chí, do sản xuất cẩu thả, không kiểm duyệt nội dung, nhiều khi dịch không sát ý của tác giả dẫn đến những lỗi sai nghiêm trọng về kiến thức.

Mà mối nguy hại lớn nhất mà sách lậu, sách giả mang lại chính là việc mọi người chấp nhận sách lậu, nghĩa là đang chấp nhận thói ăn cắp tri thức, chấp nhận những cuốn sách sai lệch về nội dung và yếu kém về hình thức.

  • Hệ quả của việc sử dụng sách “lậu” đối với tác giả

Về phía tác giả, họ là những người chịu thiệt hại nặng nề. Ta được biết các tác giả được hưởng tiền bản quyền từ số sách bán được. Nếu sách lậu được sản xuất lan tràn, công ty hay nhà xuất bản giữ bản quyền bán quyền cuốn sách không bán được sách và như vậy cũng không thể trả nhiều tiền bản quyền cho tác giả.

Đây là một trong những nguyên nhân chính làm cho các tác giả nản lòng. Nếu công sức, tâm huyết mình bỏ ra không có những thành quả xứng đáng thì liệu các tác giả uy tín có còn muốn chuyên tâm viết sách nữa hay không?

  • Hệ quả của việc sử dụng sách “lậu” đối với nhà xuất bản

Thiệt hại về phía các công ty sách và các nhà xuất bản thì đã rõ, họ bị tổn thất cả về kinh tế và uy tín. Nhà xuất bản bỏ tiền ra mua bản quyền, thuê người dịch, hiệu đính, biên tập, trình bày và cho ra đời những đứa con tâm huyết với bao công sức và trí tuệ nhưng lại bị cướp trắng trợn, bị hớt tay trên.

Doanh thu của hoạt động xuất bản đóng góp cho nền kinh tế không nhiều nhưng đây là ngành giúp nâng cao giáo dục, văn hóa và dân trí. Một tập sách đúng quy trình, từ khâu tiếp nhận bản thảo đến lúc ra sách, ít nhất cũng phải mất nửa năm, qua sự thẩm định phê duyệt của các cấp quản lý mới được xuất bản. Công sức đó đều vì sách “lậu” mà trở thành vô ích.

Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm tranh dân gian

Tranh dân gian là những tác phẩm được sáng tác để phục vụ đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân được lưu truyền qua từng thế hệ. Tranh dân gian dần dần không chỉ là những tác phẩm riêng của những tầng lớp bình dân nghèo khó mà trở thành một nét nghệ thuật đại chúng được sử dụng rộng rãi bởi cả quan lại quý tộc. Ngày nay những làng nghề tranh dân gian không còn được phát triển như trước đây. Tuy nhiên những tác phẩm tranh dân gian Việt Nam vẫn được đánh giá rất cao và được coi là đặc trưng nghệ thuật độc đáo cần được lưu giữ và bảo tồn. Vậy những tác phẩm tranh dân gian là gì và được bảo hộ như thế nào?

1. Tác phẩm tranh dân gian là những tác phẩm như thế nào?

Tranh dân gian là những tác phẩm nghệ thuật bình dân được tạo nên bởi những người nghệ sĩ chỉ quen thuộc với những công việc đồng áng mỗi ngày. Tuy nhiên những tác phẩm của họ lại đầy những tính sáng tạo độc đáo miêu tả về cuộc sống hàng ngày và những cảm nhận về thế giới xung quanh. Nghệ thuật tranh dân gian Việt Nam với bề dày lịch sử phát triển đã trở thành một phần không thể thiếu với người yêu thích hội họa nước nhà.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tác phẩm tranh dân gian là loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả, được ghi nhận tại Điểm g Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ.

Cụ thể hơn, Điểm a Khoản 7 Điều 6 Nghị định 17/2023/NĐ-CP đã làm rõ về tác phẩm tranh dân gian như sau:

“Tác phẩm mỹ thuật quy định tại điểm g khoản 1 Điều 14 của Luật Sở hữu trí tuệ là tác phẩm được thể hiện bởi đường nét, màu sắc, hình khối, bố cục bao gồm:

a) Hội họa: Tranh sơn mài, sơn dầu, lụa, bột màu, màu nước, giấy dó và các chất liệu khác;”

Như vậy, các tác phẩm tranh dân gian là các tác phẩm hội hoạ được thể hiện bằng các chất liệu như sơn mài, sơn dầu, lụa, bột màu, màu nước… mà pháp luật đề cập nêu trên.

2. Thời gian bảo hộ đối với tác phẩm tranh dân gian

Các quyền nhân thân như quyền đặt tên cho tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm và được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc và không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả được bảo hộ vô thời hạn.

Quyền công bố tác phẩm và các quyền tài sản có thời hạn bảo hộ là thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết;

3. Điều kiện bảo hộ đối với tác phẩm tranh dân gian

  • Do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác.
  • Phải là loại hình tác phẩm được định hình dưới một hình thức vật chất nhất định

Theo Điều 6 Khoản 1 Luật Sở hữu trí tuệ, quyền tác giả chỉ phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định. Nếu tác giả chỉ nghĩ ra ý tưởng mà chưa thực hiện định hình tác phẩm, thì ý tưởng đó không được bảo hộ quyền tác giả.

  • Nội dung không trái đạo đức xã hội, trật tự công cộng, không gây hại cho quốc phòng, an ninh

Theo Khoản 1 Điều 8 Luật Sở hữu trí tuệ, Nhà nước “Công nhận và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân trên cơ sở bảo đảm hài hoà lợi ích của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ với lợi ích công cộng; không bảo hộ các đối tượng sở hữu trí tuệ trái với đạo đức xã hội, trật tự công cộng, có hại cho quốc phòng, an ninh”. Như vậy, nếu như các tác phẩm tranh dân gian có nội dung trái với đạo đức xã hội, trật tự công cộng, có hại cho quốc phòng, an ninh, Nhà nước sẽ không bảo hộ.

Vậy, khi đáp ứng được các điều kiện trên, tác phẩm tranh dân gian mới được bảo hộ quyền tác giả.

Trên đây là bài viết “Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm tranh dân gian”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Những tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng mà Nhà nước là đại diện quản lý quyền tác giả, quyền liên quan

Thông thường, các tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình… đều có tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả là cá nhân hoặc tổ chức xác định. Tuy nhiên vẫn có những ngoại lệ không thể xác định được tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả của tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm… là ai, trong trường hợp đó, Nhà nước sẽ đứng ra đại diện quản lý quyền tác giả, quyền liên quan. Hãy tham khảo bài viết “Những tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng mà Nhà nước là đại diện quản lý quyền tác giả, quyền liên quan” dưới đây:

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 42 Luật sở hữu trí tuệ, Nhà nước đại diện quản lý quyền tác giả, quyền liên quan trong các trường hợp dưới đây:

1. Không thể tìm hoặc không xác định được chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan

Tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng mà không thể tìm được hoặc không xác định được chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan, đồng chủ sở hữu quyền tác giả, đồng chủ sở hữu quyền liên quan thì Nhà nước sẽ đại diện quản lý quyền tác giả, quyền liên quan.

Đây là những tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng đã được công bố nhưng không có thông tin về tác giả, người biểu diễn, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan hoặc có thông tin về tác giả, người biểu diễn, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan là tổ chức, cá nhân Việt Nam nhưng không thể tìm được hoặc không liên hệ được;

2. Tác phẩm khuyết danh

Căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định 17/2023/NĐ-CP ghi nhận, tác phẩm khuyết danh có thể được hiểu là tác phẩm không hoặc chưa có tên tác giả (tên khai sinh hoặc bút danh) trên tác phẩm khi công bố. Ví dụ về tác phẩm khuyết danh có thể kể đến tác phẩm văn học dân gian “Tấm Cám”, truyện có nguồn gốc xa xưa được phát triển trong xã hội có giai cấp cùng với sự xuất hiện chế độ tư hữu tư sản, chế độ gia đình phụ quyền thời cổ, tuy nhiên, tác giả truyện Tấm Cám là ai hiện vẫn là một ẩn số.

Cho đến khi danh tính của tác giả, đồng tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, đồng chủ sở hữu quyền tác giả được xác định thì người quản lý quyền tác giả, quyền liên quan sẽ là Nhà nước, trừ trường hợp:

  • Tổ chức, cá nhân đang quản lý hoặc nhận chuyển nhượng quyền đối với tác phẩm khuyết danh được hưởng quyền của chủ sở hữu cho đến khi danh tính của tác giả, đồng tác giả được xác định.
  • Khi danh tính của tác giả, đồng tác giả được xác định thì chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm này, các quyền và nghĩa vụ liên quan đến quyền tác giả của tổ chức, cá nhân đang quản lý hoặc nhận chuyển nhượng được xác định theo quy định của Luật SHTT và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Vậy, có hai trường hợp các tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình… mà Nhà nước là đại diện quản lý quyền tác giả, quyền liên quan được quy định trong pháp luật. Đó là, tác phẩm khuyết danh và các tác phẩm không tìm được hoặc không xác định được chủ sở hữu.

Trong trường hợp các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng có Nhà nước là đại diện quản lý quyền tác giả, quyền liên quan thì phải nộp hồ sơ trực tiếp hoặc qua dịch vụ bưu chính tới cơ quan chuyên môn quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sau khi đã nỗ lực tìm kiếm chủ thể quyền mà không thể tìm được hoặc không liên hệ được.

Trên đây là bài viết “Những tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng mà Nhà nước là đại diện quản lý quyền tác giả, quyền liên quan”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng là gì?

Khi nhắc đến biểu diễn, mọi người quen thuộc và nghĩ ngay đến các loại hình nghệ thuật biểu diễn như kịch, múa, hay là việc ca sĩ trình bày một ca khúc trên sân khấu. Tuy nhiên, dưới góc độ Luật Sở hữu trí tuệ, “biểu diễn tác phẩm trước công chúng” không được hiểu theo cách thông thường như trên và cũng không chỉ giới hạn với những loại hình nghệ thuật đó, mà được hiểu theo một cách rộng hơn. Vậy, cụ thể, theo quy định của luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, việc biểu diễn và  quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng là gì?

1. Quyền biểu diễn tác phẩm là gì và thuộc về ai?

Theo Điểm b Khoản 1 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ, quyền biểu diễn được hiểu là quyền được “Biểu diễn tác phẩm trước công chúng trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các bản ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào tại địa điểm mà công chúng có thể tiếp cận được nhưng công chúng không thể tự do lựa chọn thời gian và từng phần tác phẩm.”

Từ đó, có thể thấy rằng phạm vi của quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng được quy định khá rộng rãi, bảo gồm cả hình thức trực tiếp và trực tuyến, và không bị giới hạn chỉ trong các loại hình nghệ thuật biểu diễn thông thường như kịch, nhạc kịch, múa, trình bày bài hát trên sân khấu,…

Quyền biểu diễn tác phẩm là một trong những quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả được phép độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện. Điểm b Khoản 1 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ đã ghi nhận quyền biểu diễn tác phẩm tác phẩm trước công chúng là một trong những quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.

Do đó, nếu tổ chức, cá nhân muốn thực hiện biểu diễn tác phẩm phải được sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả và trả tiền bản quyền, các quyền lợi vật chất khác (nếu có) cho chủ sở hữu quyền tác giả.

2. Nội dung quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng với từng loại hình tác phẩm

Nghị định 17/2023/NĐ-CP đã làm rõ hơn nội dung về quyền biểu diễn đối với từng loại hình tác phẩm cụ thể như sau:  

  • Đối với tác phẩm thể hiện bằng ngôn ngữ, tác phẩm thể hiện dưới dạng chữ viết: Là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc thuyết trình, trình bày làm cho công chúng tiếp cận, cảm nhận được tác phẩm bằng thính giác nhưng công chúng không thể tự do lựa chọn thời gian và từng phần tác phẩm, bao gồm cả việc cảm nhận từ bên ngoài không gian nơi đang diễn ra việc thuyết trình, trình bày qua màn hình, loa hoặc thiết bị kỹ thuật tương tự.
  • Đối với tác phẩm âm nhạc: Là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc biểu diễn làm cho công chúng tiếp cận, cảm nhận được tác phẩm bằng thính giác hoặc trình bày tác phẩm trên sân khấu cho công chúng nhưng công chúng không thể tự do lựa chọn thời gian và từng phần tác phẩm, bao gồm cả việc cảm nhận từ bên ngoài không gian nơi đang diễn ra việc biểu diễn qua màn hình, loa hoặc thiết bị kỹ thuật tương tự.
  • Đối với tác phẩm điện ảnh: Là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc trình chiếu làm cho công chúng tiếp cận, cảm nhận được tác phẩm điện ảnh thông qua các phương tiện kỹ thuật nhưng công chúng không thể tự do lựa chọn thời gian và từng phần tác phẩm.
  • Đối với tác phẩm mỹ thuật, tác phẩm nhiếp ảnh: Là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc triển lãm, trưng bày, trình chiếu để công chúng xem bản gốc hoặc bản sao của tác phẩm.

Trên đây là bài viết “Quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng là gì?”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng

Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng đều hiện diện trong những sản phẩm, tình huống hết sức gần gũi, đời thường, ví dụ như là bao bì, đồ gốm, quần áo,…Vậy, tác phẩm mỹ thuật ứng dụng là gì và được bảo hộ như thế nào?

1. Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng là những tác phẩm như thế nào?

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tác phẩm mỹ thuật ứng dụng là loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả, được ghi nhận tại Điểm g Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ.

Cụ thể hơn, Điều 6 Khoản 8 Nghị định 17/2023/NĐ-CP đã làm rõ về tác phẩm mỹ thuật ứng dụng như sau:
“Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 14 của Luật Sở hữu trí tuệ là tác phẩm được thể hiện bởi đường nét, màu sắc, hình khối, bố cục với tính năng hữu ích, có thể gắn liền với một đồ vật hữu ích, được sản xuất thủ công hoặc công nghiệp bao gồm: Thiết kế đồ họa (hình thức thể hiện của biểu trưng, bộ nhận diện và bao bì sản phẩm; hình thức thể hiện của nhân vật); thiết kế thời trang; thiết kế mang tính mỹ thuật gắn liền với tạo dáng sản phẩm; thiết kế nội thất, trang trí nội thất, ngoại thất mang tính mỹ thuật. Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng được thể hiện dưới dạng tạo dáng sản phẩm mang tính mỹ thuật, không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình trong lĩnh vực tương ứng và không bao gồm tạo dáng bên ngoài của sản phẩm bắt buộc phải có để thực hiện chức năng của sản phẩm.”

Như vậy, tác phẩm mỹ thuật ứng dụng là những tác phẩm được thể hiện bởi đường nét, màu sắc, hình khối, bố cục với tính năng hữu ích, có thể gắn liền với một đồ vật hữu ích, được sản xuất thủ công hoặc công nghiệp thuộc một trong những trường hợp mà pháp luật đề cập nêu trên.

2. Thời hạn bảo hộ đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng

Các quyền nhân thân như quyền đặt tên cho tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm và được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc và không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả được bảo hộ vô thời hạn.

Quyền công bố tác phẩm và các quyền tài sản có thời hạn bảo hộ là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên; đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình. Đối với tác phẩm khuyết danh, khi các thông tin về tác giả xuất hiện thì thời hạn bảo hộ được tính là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết.

3. Điều kiện bảo hộ đối với tác phẩm mỹ thuật

3.1. Điều kiện đối với tác phẩm

  • Do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác.
  • Phải là loại hình tác phẩm được định hình dưới một hình thức vật chất nhất định

Theo Điều 6 Khoản 1 Luật Sở hữu trí tuệ, quyền tác giả chỉ phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định. Nếu tác giả chỉ nghĩ ra ý tưởng mà chưa thực hiện định hình tác phẩm, thì ý tưởng đó không được bảo hộ quyền tác giả.

  • Nội dung không trái đạo đức xã hội, trật tự công cộng, không gây hại cho quốc phòng, an ninh

Theo Khoản 1 Điều 8 Luật Sở hữu trí tuệ, Nhà nước “Công nhận và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân trên cơ sở bảo đảm hài hoà lợi ích của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ với lợi ích công cộng; không bảo hộ các đối tượng sở hữu trí tuệ trái với đạo đức xã hội, trật tự công cộng, có hại cho quốc phòng, an ninh”. Như vậy, nếu như các tác phẩm mỹ thuật có nội dung trái với đạo đức xã hội, trật tự công cộng, có hại cho quốc phòng, an ninh, Nhà nước sẽ không

3.2. Điều kiện đối với tác giả

Vậy, khi đáp ứng được các điều kiện trên, tác phẩm mỹ thuật ứng dụng mới được bảo hộ quyền tác giả.

Trên đây là bài viết “Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.