Skip to main content

Tác giả: Biên Tập Viên

Điều kiện bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan

Quyền tác giả, quyền liên quan đối với tác phẩm là những tài sản trí tuệ vừa có giá trị tinh thần, vừa có giá trị kinh tế đối với những người sáng tạo. Tuy nhiên, không phải bất kỳ sản phẩm sáng tạo nào được tạo ra cũng được coi là một tác phẩm để được bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan. Vậy, điều kiện bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan là gì? Bài viết dưới đây sẽ trình bày rõ hơn về những điều kiện bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan.

I. Điều kiện bảo hộ quyền tác giả

Điều kiện bảo hộ quyền tác giả chung:

Để được đăng ký bản quyền tác giả thì tác phẩm buộc phải đáp ứng những điều kiện bảo hộ quyền tác giả nhất định dưới đây:

  • Tác phẩm cần phải có tính sáng tạo: phải được tác giả trực tiếp sáng tạo, không được sao chép tác phẩm của người khác;
  • Cần được thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định. Ví dụ: tác phẩm truyện, thơ thể hiện dưới dạng những trang viết, tác phẩm điện ảnh thể hiện dưới dạng những thước phim…

Điều kiện về tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả:

Được quy định tại Điều 13 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 thì chủ sở hữu, tác giả có đầy đủ điều kiện bảo hộ quyền tác giả gồm:

  • Là người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và cũng là chủ sở hữu.
  • Là cá nhân, tổ chức Việt Nam và nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam mà chưa công bố ở bất kỳ nước nào mới có đủ điều kiện đăng ký quyền tác giả.
  • Là cá nhân và tổ chức Việt Nam, nước ngoài có tác phẩm được công bố đồng thời tại Việt Nam trong thời gian 30 ngày kể từ ngày tác phẩm đó được công bố lần đầu ở nước khác.
  • Là cá nhân và tổ chức nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo quy định của điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Điều kiện bảo hộ về loại hình tác phẩm:

Để có đủ điều kiện đăng ký bảo hộ quyền tác giả, trước hết tác phẩm cần phải là đối tượng thuộc các loại hình quy định tại Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ gồm có:

  • Bài giảng, bài phát biểu, bài nói khác;
  • Tác phẩm báo chí, âm nhạc, điện ảnh, sân khấu;
  • Tác phẩm tạo hình và ứng dụng mỹ thuật;
  • Tác phẩm nhiếp ảnh, kỹ thuật kiến trúc;
  • Bản họa đồ, bản đồ, sơ đồ, bản vẽ  có liên quan đến địa hình, công trình khoa học;
  • Tác phẩm văn học, khoa học, giáo trình, sách giáo khoa và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc các ký tự khác;
  • Nghệ thuật dân gian và tác phẩm văn học;
  • Chương trình máy tính và bộ sưu tập dữ liệu;
  • Tác phẩm phái sinh (nếu không có gây phương hại đến quyền tác giả của tác phẩm dùng làm tác phẩm phái sinh).

II. Điều kiện bảo hộ quyền liên quan

Tổ chức, cá nhân được bảo hộ quyền liên quan:

  • Diễn viên, ca sĩ, vũ công, nhạc công và những người khác trình bày tác phẩm văn học, nghệ thuật;
  • Tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu quyền liên quan quy định tại Điều 44 của Luật Sở hữu trí tuệ;
  • Tổ chức, cá nhân định hình lần đầu hình ảnh, âm thanh của cuộc biểu diễn hoặc các âm thanh, hình ảnh khác;
  • Tổ chức khởi xướng, thực hiện việc phát sóng.

Các đối tượng quyền liên quan được bảo hộ:

Cuộc biểu diễn đủ điều kiện bảo hộ quyền liên quan nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

  • Cuộc biểu diễn được công dân Việt Nam thực hiện tại Việt Nam hoặc ở nước ngoài;
  • Cuộc biểu diễn được người nước ngoài thực hiện ở Việt Nam;
  • Cuộc biểu diễn được định hình trên bản ghi hình, ghi âm được bảo hộ theo quy định tại Điều 30 của Luật Sở hữu trí tuệ.
  • Cuộc biểu diễn chưa được định hình trên bản ghi âm, ghi hình mà đã phát sóng được bảo hộ theo quy định tại Điều 31 của Luật Sở hữu trí tuệ;
  • Cuộc biểu diễn được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

  • Bản ghi âm, ghi hình của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình có quốc tịch Việt Nam;
  • Bản ghi âm, ghi hình của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá được bảo hộ nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

  • Chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá của tổ chức phát sóng có quốc tịch Việt Nam;
  • Chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá của tổ chức phát sóng được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá chỉ được bảo hộ với điều kiện không gây phương hại đến quyền tác giả.

III. Dịch vụ pháp lý hỗ trợ bản quyền của Công ty CP Phát triển bản quyền Việt Nam

Với đội ngũ chuyên gia pháp lý nhiều kinh nghiệm, chúng tôi tự tin trong việc hỗ trợ Khách hàng trong lĩnh vực bản quyền. Với phương châm luôn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Khách hàng, công ty cố gắng và đảm bảo hỗ trợ Khách hàng và triển khai công việc một cách nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả nhất, thường xuyên báo cáo tiến trình vụ việc cũng như đưa ra kế hoạch hành động tiếp theo để Khách hàng có thể dễ dàng theo dõi và đánh giá kết quả công việc. Khách hàng hoàn toàn có thể tin tưởng và an tâm khi sử dụng dịch vụ pháp lý của chúng tôi.

Trên đây là bài viết “Điều kiện bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan”. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng!

Điều kiện chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan

Ngoài việc quy định về cơ chế bảo hộ cho các đối tượng sở hữu trí tuệ thì pháp luật còn cho phép chủ sở hữu có quyền tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan. Vậy, điều kiện chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan là gì?

I. Điều kiện chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan

Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ thì chủ sở hữu quyền tác giả; chủ sở hữu quyền liên quan có quyền chuyển giao quyền sở hữu của mình đối với quyền tác giả, quyền liên quan. Tuy nhiên, khi chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan, các bên cần đáp ứng điều kiện sau:

  • Tác giả không được chuyển nhượng các quyền nhân thân; trừ quyền công bố tác phẩm.
  • Người biểu diễn không được chuyển nhượng các quyền nhân thân như quyền được giới thiệu tên khi biểu diễn, khi phát hành bản ghi âm, ghi hình, phát sóng cuộc biểu diễn; Bảo vệ sự toàn vẹn hình tượng biểu diễn, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của người biểu diễn.

II. Đối tượng chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan

Chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan được chuyển giao quyền sở hữu đối với các quyền như:

1. Đối với quyền tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả được chuyển giao quyền sở hữu đối với các quyền

  • Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;
  • Làm tác phẩm phái sinh;
  • Biểu diễn tác phẩm trước công chúng;
  • Sao chép tác phẩm;
  • Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm;
  • Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác;
  • Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.

2. Đối với quyền liên quan, chủ sở hữu quyền liên quan được chuyển giao quyền sở hữu đối với các quyền:

  • Định hình cuộc biểu diễn trực tiếp của mình trên bản ghi âm, ghi hình;
  • Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp cuộc biểu diễn của mình đã được định hình trên bản ghi âm, ghi hình;
  • Phát sóng hoặc truyền theo cách khác đến công chúng cuộc biểu diễn của mình chưa được định hình mà công chúng có thể tiếp cận được; trừ trường hợp cuộc biểu diễn đó nhằm mục đích phát sóng;
  • Phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao cuộc biểu diễn của mình thông qua hình thức bán; cho thuê hoặc phân phối bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được.
  • Phát sóng, tái phát sóng chương trình phát sóng của mình;
  • Phân phối đến công chúng chương trình phát sóng của mình;
  • Định hình chương trình phát sóng của mình;
  • Sao chép bản định hình chương trình phát sóng của mình.

3. Nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình có độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện các quyền:

  • Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình của mình;
  • Nhập khẩu, phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao bản ghi âm; ghi hình của mình thông qua hình thức bán; cho thuê hoặc phân phối bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được.
  • Tổ chức phát sóng có độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện các quyền:
  • Phát sóng, tái phát sóng chương trình phát sóng của mình;
  • Phân phối đến công chúng chương trình phát sóng của mình;
  • Định hình chương trình phát sóng của mình;
  • Sao chép bản định hình chương trình phát sóng của mình.

Lưu ý: Trong trường hợp tác phẩm; cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình; chương trình phát sóng có đồng chủ sở hữu thì việc chuyển nhượng phải có sự thỏa thuận của tất cả các đồng chủ sở hữu. Trường hợp có đồng chủ sở hữu những tác phẩm; cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình; chương trình phát sóng có các phần riêng biệt có thể tách ra sử dụng độc lập thì chủ sở hữu quyền tác giả; chủ sở hữu quyền liên quan có quyền chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan đối với phần riêng biệt của mình cho tổ chức, cá nhân khác.

III. Dịch vụ pháp lý hỗ trợ bản quyền của Công ty CP Phát triển bản quyền Việt Nam

Với đội ngũ chuyên gia pháp lý nhiều kinh nghiệm, chúng tôi tự tin trong việc hỗ trợ Khách hàng trong lĩnh vực bản quyền. Với phương châm luôn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Khách hàng, công ty cố gắng và đảm bảo hỗ trợ Khách hàng và triển khai công việc một cách nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả nhất, thường xuyên báo cáo tiến trình vụ việc cũng như đưa ra kế hoạch hành động tiếp theo để Khách hàng có thể dễ dàng theo dõi và đánh giá kết quả công việc. Khách hàng hoàn toàn có thể tin tưởng và an tâm khi sử dụng dịch vụ pháp lý của chúng tôi.

Trên đây là bài viết “Điều kiện chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan”. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng!

Cơ chế bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm báo chí

Hiện nay, các tác phẩm báo chí đang đứng trước nguy cơ cao bị xâm phạm quyền tác giả do chịu tác động từ hiệu quả lan truyền thông tin nhanh chóng qua không gian mạng và những công nghệ sao chép mới. Khi các tác phẩm báo chí chính thống bị sao chép, bị đánh cắp thì vấn đề không đơn thuần chỉ nằm ở việc xâm phạm quyền tài sản, gây thất thu lớn về mặt kinh tế cho các đơn vị nắm giữ bản quyền mà những tác phẩm báo chí còn bị cắt cúp, sao chép, làm méo mó, sai lệch thông tin được truyền tải ban đầu, gây hoang mang dư luận, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân. Pháp luật hiện hành đã và đang có những cơ chế quan trọng trong việc bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm báo chí, nội dung cụ thể sẽ được chúng tôi trình ngay sau đây:

1. Quyền tác giả đối với tác phẩm báo chí

Tác phẩm báo chí là đơn vị cấu thành nhỏ nhất của sản phẩm báo chí, có nội dung độc lập và cấu tạo hoàn chỉnh, gồm tin, bài được thể hiện bằng chữ viết, âm thanh hoặc hình ảnh.

Theo Điều 6 Khoản 3 Nghị định 17/2023/NĐ-CP, tác phẩm báo chí quy định tại điểm c khoản 1 Điều 14 của Luật Sở hữu trí tuệ là tác phẩm có nội dung độc lập và cấu tạo hoàn chỉnh, bao gồm các thể loại: Phóng sự, ghi nhanh, tường thuật, phỏng vấn, phản ánh, điều tra, bình luận, xã luận, chuyên luận, ký báo chí và các thể loại báo chí khác nhằm đăng, phát trên báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử hoặc các phương tiện khác

Căn cứ theo Điều 19, 20 Luật Sở hữu trí tuệ, quyền tác giả đối với tác phẩm báo chí bao gồm các quyền nhân thân, quyền tài sản, cụ thể:

  • Quyền nhân thân: Đặt tên cho tác phẩm báo chí; đứng tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm báo chí được công bố, sử dụng; Công bố, phổ biến hoặc cho người khác công bố, phổ biến; Bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm báo chí, không cho phép người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của mình;
  • Quyền tài sản: Được hưởng nhuận bút – khoản tiền do tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tác phẩm báo chí; Được hưởng thù lao khi tác phẩm báo chí được sử dụng; Được hưởng lợi ích vật chất từ việc cho người khác sử dụng tác phẩm dưới các hình thức như xuất bản, tái bản, trưng bày.

2. Cơ chế bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm báo chí

Hiện nay, việc bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm báo chí đang gặp nhiều thách thức khi mà tình trạng vi phạm bản quyền vẫn còn rất phổ biến, đa dạng, việc vi phạm ngày càng tinh vi hơn với việc khai thác sự phát triển của công nghệ. Tác giả, chủ sở hữu tác phẩm trước tiên cần nhận biết được hành vi nào là vi phạm quyền tác giả, đồng thời cần có ý thức tự bảo vệ tác phẩm thuộc sở hữu của mình. Về cơ bản, việc bảo vệ quyền tác giả được thực hiện thông qua những cơ chế như sau:

2.1.Biện pháp dân sự

Biện pháp dân sự là những biện pháp cho phép tác giả tự bảo vệ tác phẩm của mình trước các hành vi xâm phạm quyền tác giả có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích chính đáng, cũng như xâm phạm danh dự, uy tín, giá trị tri thức sáng tạo của bản thân tác giả, cụ thể:

  • Yêu cầu đối tượng vi phạm tự gỡ bỏ bài vi phạm, có công văn cam kết không tái phạm, nếu tái phạm sẽ thực hiện những biện pháp mạnh hơn; thương lượng, đàm phán giữa hai bên để đem lại kết quả có lợi nhất cho tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả.
  • Được tiến hành thủ tục tố tụng dân sự trên cơ sở yêu cầu của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ hoặc tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra. Theo đó tác giả của tác phẩm báo chí bị xâm phạm có thể nộp đơn khởi kiện ra Tòa án nhân dân nơi cư trú của cá nhân, và trụ sở của pháp nhân có hành vi xâm phạm hoặc Tòa án nơi hành vi xâm phạm được thực hiện, Khi tiến hành nộp đơn khởi kiện thì tác giả tác phẩm báo chí bị xâm phạm cần chuẩn bị các bằng chứng kèm theo;
  • Trong trường hợp có yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì theo Điều 584 BLDS năm 2015, tác giả có nghĩa vụ chứng minh về: (i) hành vi xâm phạm; (ii) thiệt hại thực tế xảy ra; (iii) mối quan hệ giữa hành vi xâm phạm và thiệt hại xảy ra.

2.2.Biện pháp hình sự

Biện pháp hình sự là biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được quy định là tội phạm theo thủ tục tố tụng hình sự, cụ thể:

  • Tác giả của tác phẩm báo chí có thể nộp đơn tố giác tội phạm khi phát hiện cá nhân khác có hành vi xâm phạm mà đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại Điều 225 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
  • Đơn tố giác tội phạm sẽ được gửi cơ quan có thẩm quyền, cụ thể là Cơ quan điều tra cấp huyện nơi mà xảy ra hành vi phạm tội hoặc nói người phạm tội cư trú.

2.3.Biện pháp hành chính

Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ, cá nhân, tổ chức khác bị thiệt hại do hành vi xâm phạm hoặc phát hiện hành vi xâm phạm có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm, cụ thể là Thanh tra, Quản lý thị trường, Hải quan, Công an, Uỷ ban nhân dân các cấp sẽ có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm tác phẩm báo chí. Các hành vi vi phạm hành chính do xâm phạm quyền tác giả của tác phẩm báo chí và biện pháp khắc phục hậu quả hiện nay quy định tại Nghị định số 131/2013/NĐ- CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan, cụ thể là từ Điều 8 đến Điều 12, Điều 15 đến Điều 20, Điều 27 đến Điều 35.

Tùy vào từng trường hợp, cũng như mức độ thiện chí của bên xâm phạm và mong muốn của tác giả thì tác giả tác phẩm báo chí bị xâm phạm có thể lựa chọn cho mình các biện pháp phù hợp.

Trên đây là bài viết Cơ chế bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm báo chí. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Quyền tác giả đối với bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác

Bài giảng, bài phát biểu và các bài nói là những đối tượng thường xuyên xuất hiện trong cuộc sống, vô cùng quen thuộc với mọi người. Bài giảng, bài phát biểu và các bài nói được thể hiện bằng ngôn ngữ, được truyền đạt bằng phương thức nói và được hình thành qua quá trình tư duy trí tuệ của người nói để truyền tải những nội dung cụ thể cho người tiếp nhận. Vậy bài giảng, bài phát biểu, các bài nói khác có là đối tượng được bảo hộ sở hữu trí tuệ hay không và tác giả có các quyền nào đối với các đối tượng này, sau đây là phần trình bày của chúng tôi.

1. Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác là gì?

Theo Điều 6 Khoản 2 Nghị định 17/2023/NĐ-CP, Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác quy định tại điểm b khoản 1 Điều 14 của Luật Sở hữu trí tuệ là tác phẩm thể hiện bằng ngôn ngữ nói và phải được định hình dưới một hình thức vật chất nhất định.

Bài giảng được hiểu là bài trình bày sử dụng các phương pháp, kĩ năng sư phạm để cung cấp kiến thức về một vấn đề cụ thể được truyền đạt trực tiếp cho người nghe. Bài giảng được thể hiện dưới dạng vật chất nhất định bằng bất kỳ phương thức định hình nào.

Bài phát biểu được hiểu là các bài diễn thuyết hay bài trình bày chính thức ở trong một hoàn cảnh cụ thể nhân sự kiện đặc biệt nào đó được tổ chức.

Bài nói khác là các tác phẩm nói có bản chất tương tự như các tác phẩm nêu trên, bao gồm cả các bài thuyết giáo.

Các bài giảng, bài phát biểu và các bài nói khác là các tác phẩm được thể hiện bằng ngôn ngữ nói và phải được định hình dưới hình thức vật chất nhất định, như được ghi âm lại hoặc/và được lưu hành thành văn bản.

2. Điều kiện bảo hộ quyền tác giả đối với bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác

Theo Luật Sở hữu trí tuệ, để bài giảng, bài phát biểu, bài nói khác được bảo hộ quyền tác giả cần đáp ứng những điều kiện sau:

Thứ nhất, là thành quả của hoạt động sáng tạo tinh thần. Theo đó, các tác phẩm này phải là kết quả của quá trình lao động trí tuệ, suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo, phản ánh tư tưởng, tình cảm của người sáng tạo.

Thứ hai, có tính sáng tạo (nguyên gốc). Theo khoản 3 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ quy định tác phẩm được bảo hộ “phải do tác giả trực tiếp sáng tạo ra bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác”. Do vậy, tính sáng tạo ở đây đòi hỏi tác phẩm phải do chính tác giả tạo ra, mang đặc trưng riêng.

Thứ ba, tác phẩm phải được thể hiện dưới một hình thức nhất định. Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác là tác phẩm thể hiện bằng ngôn ngữ nói và phải được định hình dưới một hình thức vật chất nhất định. Có thể bằng văn bản hoặc các tệp file, băng đĩa, bản ghi âm, ghi hình… Trong trường hợp bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác không được thể hiện dưới một hình thức vật chất nào thì sẽ không được công nhận và được bảo hộ theo quy định của pháp luật.

3.Quyền tác giả đối với bài giảng, bài phát biểu và bài nói

Trong trường hợp tác giả tự thực hiện việc định hình bài giảng, bài phát biểu, bài nói khác dưới hình thức bản ghi âm, ghi hình, thì tác giả được hưởng quyền tác giả đối với bài giảng, bài phát biểu, bài nói khác, cụ thể là quyền nhân thân và quyền tài sản được quy định tại Điều 19, 20 Luật Sở hữu trí tuệ:

  • Quyền nhân thân
    • Đặt tên cho bài giảng, bài phát biểu và bài nói;
    • Đứng tên thật hoặc bút danh khi bài giảng, bài phát biểu và bài nói được công bố, sử dụng;
    • Công bố, phổ biến hoặc cho người khác công bố, phổ biến bài giảng, bài phát biểu, bài nói của mình;
    • Bảo vệ sự toàn vẹn của bài giảng, bài phát biểu, bài nói, không cho phép người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của mình.
  • Quyền tài sản
    • Được hưởng nhuận bút – khoản tiền do tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tác phẩm trả cho tác giả khi tác phẩm được khai thác, sử dụng;
    • Được hưởng thù lao khi tác phẩm được sử dụng;
    • Được hưởng lợi ích vật chất từ việc cho người khác sử dụng tác phẩm dưới các hình thức như xuất bản, tái bản, trưng bày, triển lãm, biểu diễn, phát thanh, truyền hình, ghi âm, ghi hình, chụp ảnh; dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, cho thuê và bất kỳ hình thức truyền tải nào khác; được nhận giải thưởng đối với tác phẩm mà mình là tác giả.

Trên đây là bài viết Quyền tác giả đối với bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Những lợi ích khi ủy quyền quản lý quyền tác giả

Khi đưa vào khai thác khía cạnh kinh tế của quyền tác giả, các tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả có thể sẽ gặp nhiều khó khăn do chưa hiểu hết về luật sở hữu trí tuệ và ít nguồn lực. Việc quản lý và giám sát các quyền tác giả không phải là dễ dàng và đòi hỏi sự chuyên nghiệp và kinh nghiệm. Trong khi đó, một tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả sẽ giúp tối ưu thời gian, lợi ích để bảo vệ và quản lý các quyền tác giả của các tác giả và chủ sở hữu. Hãy tham khảo “Những lợi ích khi ủy quyền quản lý quyền tác giả” dưới đây:

Trên thực tế, việc từng cá nhân trực tiếp thực hiện quản lý các quyền tác giả của mình không phải là hình thức thuận tiện, hiệu quả nhất trong thời đại ngành công nghiệp giải trí và công nghiệp bản quyền phát triển mạnh. Cụ thể, sự phức tạp, không thuận tiện được thể hiện ở các khía cạnh như sau:

Thứ nhất, về phía các tác giả, các tác giả sẽ không thuận tiện khi đàm phán hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng cho những người có nhu cầu khai thác tác phẩm vì phải tự mình liên lạc, thương lượng với từng cá nhân, tổ chức khai thác về việc sử dụng tác phẩm trong mỗi trường hợp cụ thể. Bên cạnh đó, tác giả cũng không có đủ khả năng, nguồn lực để kiểm soát việc người khác có sử dụng tác phẩm của mình hay không, hoặc sử dụng vào đúng mục đích không, đặc biệt là việc sử dụng trên môi trường mạng. Thậm chí, khi có tranh chấp xảy ra, các tác giả dễ rơi vào tình thế khó khăn do phải đơn độc tự bảo vệ quyền lợi của mình trước những công ty lớn. Ngoài ra, ví dụ như khi phát sóng, hoặc đăng tải tác phẩm lên mạng internet, không có cách nào để mỗi người dùng có thể trả thù lao cho từng tác giả, từng người sáng tạo hoặc chủ sở hữu quyền mỗi khi một tác phẩm được truy cập hoặc thưởng thức.         

Thứ hai, về phía những người có nhu cầu khai thác tác phẩm, họ sẽ phải bỏ nhiều thời gian, công sức để tìm kiếm tác giả, thương lượng để tác giả cho phép họ sử dụng tác phẩm, đặc biệt là khi họ có nhu cầu sử dụng nhiều tác phẩm của các tác giả khác nhau cùng một lúc. Điều này sẽ khiến công việc dễ bị kéo dài, tốn nhiều nhân lực để thực hiện và không đáp ứng được nhu cầu công việc trên thực tế.  

Vì những lý do trên, việc những tổ chức đứng ra làm cầu nối trung gian giữa tác giả và những người có nhu cầu khai thác tác phẩm là vô cùng cần thiết. Một tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả sẽ giúp ích cho cả hai bên tiết kiệm được thời gian, công sức, nhân lực để cùng hợp tác với nhau, hơn nữa đồng thời giúp tác giả dễ dàng kiểm soát tình trạng sử dụng tác phẩm của các bên khai thác, đồng hành cùng tác giả trong vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả.

Với đội ngũ chuyên gia pháp lý nhiều kinh nghiệm, Công ty Cổ phần Phát triển Bản quyền Việt Nam, với tư cách là một trong những tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả đầu tiên tại Việt Nam, là cầu nối hợp tác giữa các tác giả và những bên khai thác tác phẩm. Chúng tôi tự tin trong việc hỗ trợ Khách hàng các vấn đề trong lĩnh vực bản quyền, luôn đồng hành, giúp đỡ các tác giả trong quá trình quản lý và khai thác tác phẩm. Với phương châm luôn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Khách hàng, chúng tôi cố gắng và đảm bảo hỗ trợ Khách hàng và triển khai công việc một cách nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả nhất, thường xuyên báo cáo tiến trình công việc cũng như đưa ra kế hoạch hành động tiếp theo để Khách hàng có thể dễ dàng theo dõi và đánh giá kết quả công việc. Khách hàng hoàn toàn có thể tin tưởng và an tâm khi sử dụng dịch vụ của Bản quyền Việt Nam.

Trên đây là bài viết “Những lợi ích khi ủy quyền quản lý quyền tác giả”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Lời bài hát được bảo hộ quyền tác giả như thế nào?

Một bài hát thông thường phải bao gồm cả phần nhạc và phần lời. Tuy nhiên, trên thực tế, phần nhạc và phần lời có thể do hai tác giả khác nhau sáng tác, ví dụ như trường hợp phổ nhạc cho thơ. Vậy, Lời bài hát được bảo hộ quyền tác giả như thế nào?? Liệu phần nhạc và phần lời được bảo hộ tổng thể với tư cách là một tác phẩm âm nhạc hay được bảo hộ độc lập riêng rẽ?

1. Tham khảo pháp luật quốc tế về bảo hộ quyền tác giả đối với lời bài hát

Theo Điều 2 Khoản 1 của Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, tác phẩm âm nhạc có lời hoặc không có lời (“musical compositions with or without word”) là một hình thức tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả.

Tham khảo Đạo luật Bản quyền của Hoa Kỳ, tại Điều 102(a)(2) quy định tác phẩm âm nhạc, bao gồm cả các từ đi kèm (“musical works, including any accompanying words”) là đối tượng được bảo hộ quyền tác giả.

Khác với Hoa Kỳ, trong Đạo luật Bản quyền, Thiết kế và Bằng sáng chế của Vương quốc Anh, tại Điều 3(1) quy định “tác phẩm âm nhạc” có nghĩa là tác phẩm bao gồm âm nhạc, không bao gồm bất kỳ từ ngữ hoặc hành động nào nhằm mục đích hát, nói hoặc biểu diễn cùng với âm nhạc (“ “musical work” means a work consisting of music, exclusive of any words or action intended to be sung, spoken or performed with the music”). Bên cạnh đó, đạo luật này cũng phân định rất rõ tác giả của một tác phẩm văn học (không bao gồm phần lời được hát hoặc nói bằng âm nhạc), tác giả của phần nhạc và phần lời (“ a literary work consisting of words intended to be sung or spoken with music”) tại Điều 77 Khoản 2, Khoản 3 . Tương tự, Đạo luật Bản quyền của Ấn độ cũng quy định tại Điều 2(p) rằng “tác phẩm âm nhạc” có nghĩa là tác phẩm bao gồm âm nhạc và bao gồm bất kỳ ký hiệu đồ họa nào của tác phẩm đó nhưng không bao gồm bất kỳ từ ngữ hoặc bất kỳ hành động nào nhằm mục đích hát, nói hoặc biểu diễn bằng âm nhạc .

Mặc dù cả Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và Ấn Độ đều là thành viên của Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, việc bảo hộ tác phẩm âm nhạc giữa các quốc gia vẫn có sự khác nhau.

2. Bảo hộ quyền tác giả đối với lời bài hát theo pháp luật Việt Nam

Tác phẩm âm nhạc là một trong những loại hình được bảo hộ quyền tác giả theo quy định tại Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam. Theo cách hiểu thông thường, có thể nhận thấy rõ một bài hát, bao gồm phần lời và phần nhạc là một tác phẩm âm nhạc. Tuy nhiên, trong Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam lại chưa quy định rõ ràng về việc một tác phẩm âm nhạc có bao gồm phần lời hay không, và phần lời đó được bảo hộ như thế nào.

Trước đây, tại Điều 10 Nghị định 22/2018/NĐ-CP, tác phẩm âm nhạc được giải thích là tác phẩm được thể hiện dưới dạng nhạc nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác hoặc được định hình trên bản ghi âm, ghi hình có hoặc không có lời, không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn. Sau đó, theo Khoản 4 Điều 6 Nghị định 17/2023/NĐ-CP thay thế cho nghị định 22/2018/NĐ-CP hướng dẫn Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan, tác phẩm âm nhạc được định nghĩa là tác phẩm được thể hiện dưới dạng nhạc nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn.

Quy định tại Nghị định 17/2023/NĐ-CP nêu trên có thể hiểu rằng tác phẩm âm nhạc chỉ bao gồm phần âm nhạc, được thể hiện dưới dạng nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác, không bao gồm phần lời và cũng không bao gồm các bản ghi âm, ghi hình tác phẩm âm nhạc đó.

Sự thay đổi trong quy định về tác phẩm âm nhạc như trên cũng giúp tách bạch rõ ràng giữa quyền tác giả của bản nhạc và quyền tác giả của lời bài hát. Bởi phần nhạc và phần lời có thể tách riêng để sử dụng độc lập mà không làm ảnh hưởng tới phần còn lại, do vậy khi xem xét về việc bảo hộ từng phần, phần nhạc sẽ được bảo hộ dưới hình thức tác phẩm âm nhạc, còn phần lời sẽ được bảo hộ dưới hình thức tác phẩm viết. Bên cạnh đó, khi một bài hát được tạo thành bởi một tác giả soạn lời và một tác giả soạn nhạc thì cả hai tác giả sẽ được coi là đồng tác giả của bài hát, tuy nhiên phần lời và phần nhạc của bài hát đều được sáng tác một cách riêng rẽ, không ảnh hưởng đến nhau và có thể tách ra sử dụng độc lập.

Tuy nhiên, việc chỉ quy định như trên vẫn là chưa đầy đủ, pháp luật Việt Nam vẫn cần bổ sung, làm rõ hơn các quy định liên quan đến tác phẩm âm nhạc, cụ thể là nêu rõ hình thức bảo hộ đối với phần lời bài hát và hướng dẫn đăng ký quyền tác giả đối với các bài hát.

Mặt khác, việc bảo hộ lời bài hát như một tác phẩm viết đặt ra vấn đề liệu sao chép một phần lời bài hát có bị coi là xâm phạm quyền tác giả hay không. Ở đây, có hai trường hợp xảy ra, và phải xét đến tính nguyên gốc, nghĩa là sáng tạo trí tuệ riêng của tác giả. Rõ ràng, nếu hai bài hát cùng sử dụng những cụm từ thông dụng như “anh yêu em”, “anh thương em rất nhiều”,…thì không thể được coi là sao chép, xâm phạm quyền tác giả, bởi nó không thể hiện được dấu ấn sáng tạo cá nhân của tác giả. Tuy nhiên, cụm từ “Vì anh thương em, như thương cây bàng non” lại là một so sánh độc đáo, chưa ai từng sử dụng, thể hiện sự sáng tạo và dấu ấn cá nhân của tác giả.

Bên cạnh đó, dưới khía cạnh thương mại, nhiều trang web nghe nhạc và các trang web khác nếu muốn đăng lời bài hát để phục vụ cho mục đích kinh doanh, hay có doanh thu từ việc đăng lời bài hát, cũng cần xin phép và trả tiền bản quyền cho tác giả.

Trên đây là bài viết “Lời bài hát được bảo hộ quyền tác giả như thế nào?”. Mong bài viết này có ích đối với quý vị.

Trân trọng,

Tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan là ai?

Trong trường hợp gặp phải những vấn đề xoay quanh quyền tác giả, quyền liên quan, quý vị thường tìm đến sự giúp đỡ từ đâu? Công ty luật hay công ty bản quyền? Dù bất kể là công ty nào, sự có mặt của các tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả nêu trên sẽ giúp ích cho quý vị. Vậy, Tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan là ai?

1.Tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan là gì?

Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam không quy định rõ khái niệm về tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan mà chỉ xác định thông qua phạm vi hoạt động của tổ chức. Tuy nhiên, để trở thành tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan, một tổ chức phải đáp ứng được một số điều kiện nhất định. Theo Điều 57 Luật Sở hữu trí tuệ, tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan là những tổ chức như sau:

“1. Tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật.

2. Tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan thực hiện các hoạt động sau đây theo yêu cầu của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan:

a) Tư vấn những vấn đề có liên quan đến quy định của pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan;

b) Đại diện cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan tiến hành thủ tục nộp đơn đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan theo uỷ quyền;

c) Tham gia các quan hệ pháp luật khác về quyền tác giả, quyền liên quan, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan theo uỷ quyền.”

Để làm rõ hơn các yếu tố nêu trên, Nghị định 17/2023/NĐ-CP đã được ban hành, trong đó xác định rõ những loại hình tổ chức đủ điều kiện để được coi là tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan và cơ chế quản lý nhà nước được áp dụng với tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan.

2. Điều kiện trở thành tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan

Theo Điều 55 Nghị định 17/2023/NĐ-CP, tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan quy định tại khoản 1 Điều 57 của Luật Sở hữu trí tuệ bao gồm:

  • Doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo pháp luật về doanh nghiệp;
  • Hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo pháp luật về hợp tác xã;
  • Đơn vị sự nghiệp;
  • Các tổ chức hành nghề luật sư được thành lập và hoạt động theo pháp luật về luật sư, trừ chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài, công ty luật trách nhiệm hữu hạn một trăm phần trăm vốn nước ngoài, công ty luật trách nhiệm hữu hạn dưới hình thức liên doanh giữa tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam và tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài.

Bên cạnh đó, để trở thành tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan, người đứng đầu tổ chức và cá nhân hoạt động tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan trong tổ chức phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây (Theo Khoản 2 Điều 55 Nghị định 17/2023/NĐ-CP):

  • Là công dân Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
  • Thường trú tại Việt Nam;
  • Có bằng tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật.

3. Cơ chế quản lý của nhà nước đối với tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 55 Nghị định 17/2023/NĐ-CP Khoản 3, 4, 5, 6 và 7)

Nhà nước thực hiện ghi nhận đối với tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan, cụ thể là cơ quan chuyên môn quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Cục Bản quyền tác giả) sẽ ghi nhận là tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan trong Sổ đăng ký quốc gia về tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan và công bố trên trang thông tin điện tử về quyền tác giả, quyền liên quan theo yêu cầu của tổ chức đó sau khi được xem xét chấp thuận yêu cầu ghi nhận. Chi nhánh và các đơn vị phụ thuộc khác của các tổ chức có đủ các điều kiện chỉ được kinh doanh hoạt động tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan dưới danh nghĩa của tổ chức mà mình phụ thuộc.

Nếu một tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan (i) từ bỏ, chấm dứt kinh doanh tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan; hoặc (ii) tổ chức đó không còn đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định khoản 1 Điều 57 của Luật Sở hữu trí tuệ và khoản 2 Điều 55 Nghị định 17/2023/NĐ-CP như đã nêu, thì cơ quan quản lý sẽ xoá tên tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan trong Sổ đăng ký quốc gia về tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan. Việc xóa tên sẽ được công bố trên trang thông tin điện tử về quyền tác giả, quyền liên quan.

Mặt khác, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan chuyên môn quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xóa tên tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan nếu có đủ căn cứ khẳng định tổ chức không còn đủ điều kiện kinh doanh tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan.

Ngoài ra, trong trường hợp có thay đổi liên quan đến thông tin của tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan, tổ chức này phải gửi văn bản thông báo về nội dung thay đổi đến cơ quan chuyên môn quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Bên cạnh đó, tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan phải thực hiện chế độ báo cáo, thông tin cho cơ quan chuyên môn quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hằng năm hoặc đột xuất về các hoạt động tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan.

Trên đây là bài viết “Tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan là ai??”. Mong bài viết này có ích đối với quý vị.

Trân trọng,

Có phải duy nhất tổ chức tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan mới được đại diện cho tác giả quản lý quyền tác giả, quyền liên quan hay không?

Việc quản lý tập thể quyền tác giả là một mô hình hiện đại, là bước tiến quan trọng trong quá trình quản lý quyền tác giả, quyền liên quan. Trong trường hợp tác giả muốn hợp tác với nhiều bên để khai thác tác phẩm, hay một bên muốn liên hệ với nhiều tác giả để sử dụng các tác phẩm của họ, mặt khác mỗi tác giả lại không chỉ có một tác phẩm, do đó lượng công việc đồ sộ này yêu cầu một hình thức quản lý quyền tác giả thuận tiện hơn, đóng vai trò là cầu nối cho các tác giả với các bên có nhu cầu khai thác quyền tác giả. Từ những yêu cầu thực tiễn trên, việc hình thành những tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả là hệ quả tất yếu. Tuy nhiên, có phải duy nhất tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan – là những tổ chức hoạt động không vì mục đích lợi nhuận – mới được đại diện cho tác giả quản lý quyền tác giả, quyền liên quan hay không?

Theo pháp luật dân sự Việt Nam, tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan có thể tự mình quản lý hoặc ủy quyền cho cá nhân, tổ chức khác quản lý quyền tác giả, quyền liên quan mà mình đang nắm giữ.

Điều 56 Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “Tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan là tổ chức tự nguyện, tự bảo đảm kinh phí hoạt động, không vì mục đích lợi nhuận do các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan thỏa thuận thành lập, hoạt động theo quy định của pháp luật để thực hiện ủy thác quyền tác giả, quyền liên quan, chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về hoạt động đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan.”

Trong đó, tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan thực hiện các hoạt động sau đây theo ủy quyền bằng văn bản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan:

  • Thực hiện việc quản lý quyền tác giả, quyền liên quan; đàm phán cấp phép, thu và phân chia tiền bản quyền, các quyền lợi vật chất khác từ việc cho phép khai thác các quyền được ủy quyền;
  • Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của thành viên; tổ chức hòa giải khi có tranh chấp.

Theo pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, không phải duy nhất tổ chức tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan mới được đại diện cho tác giả quản lý quyền tác giả, quyền liên quan. Các tổ chức khác cũng được đại diện cho tác giả quản lý quyền tác giả, quyền liên quan được gọi chung là các tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan. Tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan thực hiện các hoạt động sau đây theo yêu cầu của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan (Điều 57 Luật Sở hữu trí tuệ):

 Tư vấn những vấn đề có liên quan đến quy định của pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan;

 Đại diện cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan tiến hành thủ tục nộp đơn đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan theo uỷ quyền;

 Tham gia các quan hệ pháp luật khác về quyền tác giả, quyền liên quan, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan theo uỷ quyền.

Mặc dù không quy định trực tiếp, tuy nhiên việc đại diện theo ủy quyền để thực hiện việc quản lý quyền tác giả, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan hoàn toàn phù hợp với các quy định pháp luật dân sự của Việt Nam. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan có thể tự do lựa chọn bất cứ một tổ chức nào phù hợp để ủy quyền quản lý quyền tác giả, quyền liên quan của mình.

Khác với Việt Nam, Liên minh châu Âu đã quy định rất rõ ràng về các tổ chức quản lý quyền tác giả, quyền liên quan ngoài các tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan dưới cái tên “tổ chức quản lý độc lập” (independent management entity – IME). Theo Chỉ thị 2014/26/EU ngày 26 tháng 2 năm 2014 của Liên minh Châu Âu (EU) về quản lý tập thể quyền tác giả và quyền liên quan và cấp phép đa lãnh thổ quyền đối với tác phẩm âm nhạc để sử dụng trực tuyến trong thị trường nội địa, các tổ chức quản lý độc lập được hiểu là:

“ “tổ chức quản lý độc lập” có nghĩa là bất kỳ tổ chức nào được pháp luật cho phép, hoặc bằng cách chuyển nhượng, cấp phép hoặc bất kỳ thỏa thuận hợp đồng nào khác để quản lý bản quyền hoặc các quyền liên quan đến bản quyền thay mặt cho nhiều chủ sở hữu quyền, vì lợi ích tập thể của những chủ sở hữu quyền đó, như mục đích duy nhất hoặc chính của nó, và tổ chức đó:

(i) không thuộc sở hữu hoặc kiểm soát, trực tiếp hoặc gián tiếp, toàn bộ hoặc một phần bởi chủ sở hữu quyền; và

(ii) được tổ chức trên cơ sở vì lợi nhuận;”

Từ những dẫn chứng nêu trên, có thể thấy rằng, ở tại Việt Nam hay quốc tế, không phải duy nhất tổ chức tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan mới được thực hiện việc quản lý tập thể, đại diện cho các tác giả quản lý quyền tác giả, quyền liên quan.

Trên đây là bài viết “Có phải duy nhất tổ chức tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan mới được đại diện cho tác giả quản lý quyền tác giả, quyền liên quan hay không?” Mong bài viết này có ích đối với quý vị.

Trân trọng,

Lấy một câu văn, câu thơ, câu hát nổi tiếng để làm slogan, tagline cho thương hiệu có xâm phạm bản quyền không?

Dùng những câu văn, câu thơ, câu hát nổi tiếng để làm slogan, tagline cho thương hiệu có thể giúp thương hiệu lan truyền được danh tiếng tốt hơn, được nhiều người biết đến hơn bởi họ đều đã biết những câu văn, câu thơ, câu hát nổi tiếng đó. Tuy nhiên, liệu một thương hiệu, nhãn hàng Lấy một câu văn câu thơ câu hát nổi tiếng để làm slogan tagline cho thương hiệu có xâm phạm bản quyền không?

Trong các chiến dịch quảng cáo, nhãn hàng có thể sử dụng những câu văn, câu thơ, câu hát nổi tiếng, có ý nghĩa để thực hiện quảng cáo, làm slogan cho sản phẩm, thể hiện được tính chất của sản phẩm hay điều mà nhãn hàng và sản phẩm sẽ đem lại cho người tiêu dùng. Ví dụ, trong chiến dich quảng cáo của ViettelMoney đã sử dụng câu hát “Ting Ting trong 1 nốt nhạc” trong bài hát “Hết Mana” do Bigdaddy, Justatee, Bình Gold thể hiện để biểu thị khả năng chuyển tiền nhanh chóng của dịch vụ mà ViettelMoney cung cấp. Hay, một đoạn trong ca khúc Titanium của ca sĩ Sia đã được sử dụng trong quảng cáo sản phẩm kem đánh răng Closeup của công ty Unilever. Có thể thấy, việc sử dụng những câu văn, câu thơ, câu hát nổi tiếng để làm slogan quảng cáo cho thương hiệu là rất phổ biến và đem lại hiệu quả tích cực cho nhãn hàng. Tuy nhiên, để thực hiện việc đó, nhãn hàng cũng cần lưu ý tới vấn đề bản quyền khi sử dụng những câu văn, câu thơ, câu hát nổi tiếng của người khác.

Việc sử dụng một câu văn, câu thơ, câu hát nổi tiếng để làm slogan, tagline cho thương hiệu là việc sao chép một phần tác phẩm để sử dụng cho mục đích thương mại. Theo Khoản 2 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ, tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng quyền sao chép tác phẩm như trên phải được sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả và trả tiền bản quyền, các quyền lợi vật chất khác (nếu có) cho chủ sở hữu quyền tác giả.

Bên cạnh đó, đối với phần tác phẩm được trích ra từ bản ghi âm, ghi hình, theo Điều 26 Khoản 1 Điểm b, Điều 33 Khoản 1 Điểm b Luật Sở hữu trí tuệ, trường hợp tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép định hình trên bản ghi âm, ghi hình công bố nhằm mục đích thương mại thì tổ chức, cá nhân sử dụng bản ghi âm, ghi hình này trong hoạt động kinh doanh, thương mại không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền cho chủ sở hữu quyền tác giả của tác phẩm, cho người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng theo thỏa thuận kể từ khi sử dụng; trường hợp không đạt được thỏa thuận thì thực hiện theo biểu mức quy định của Chính phủ. Cụ thể hơn, Điều 35 Nghị định 17/2023/NĐ-CP còn quy định nếu cá nhân, tổ chức nêu trên không trả tiền bản quyền trong thời hạn 90 ngày kể từ khi sử dụng thì phải dừng việc tiếp tục sử dụng.

Trên đây là bài viết “Lấy một câu văn, câu thơ, câu hát nổi tiếng để làm slogan, tagline cho thương hiệu có xâm phạm bản quyền không?”. Mong bài viết này có ích đối với quý vị.

Trân trọng,

Âm thanh nhận diện thương hiệu có được bảo hộ quyền tác giả không?

Ngày nay, khi xây dựng thương hiệu, người ta không chỉ tập trung đầu về mặt hình ảnh mà còn đầu tư cả về mặt âm thanh. Âm thanh này đại diện cho bản sắc và giá trị của doanh nghiệp, kết hợp với hình ảnh để trở thành bộ nhận diện thương hiệu trên thị trường, ví dụ như âm thanh tiếng mở nắp của Coca Cola hay “I’m lovin’ it” của McDonald’s. Vậy, Âm thanh nhận diện thương hiệu có được bảo hộ quyền tác giả không?

1. Âm thanh nhận diện thương hiệu là gì?

Âm thanh nhận diện thương hiệu là âm thanh đặc trưng được các thương hiệu sử dụng để củng cố nhận thức về thương hiệu của người tiêu dùng, còn được gọi là logo âm thanh (audio logo). Âm thanh nhận diện thương hiệu thường ngắn gọn, dễ nhận biết và dễ nhớ, ví dụ như âm thanh đọc khẩu hiệu thương hiệu, một giai điệu ngắn, âm thanh đặc trưng của sản phẩm,… Thương hiệu sử dụng âm thanh đặc trưng với chủ ý giúp khán giả liên kết những âm thanh đó với thương hiệu của họ. Không cần phải nhìn hình ảnh logo, chỉ cần mọi người nghe được âm thanh đó và họ sẽ liên tưởng ngay đến thương hiệu.

Âm thanh độc quyền để nhận diện thương hiệu tạo nên sự riêng biệt và lợi thế cạnh tranh với các đối thủ khác. Nhiều thương hiệu đã bỏ công sức, tiền bạc để đầu tư phát triển, xây dựng âm thanh nhận diện thương hiệu đặc sắc, mang đặc trưng riêng của thương hiệu. Ví dụ, Mastercard đã làm bản phối âm thanh nhận diện thương hiệu tại thị trường Việt Nam, sử dụng các nhạc cụ truyền thống như sáo, đàn bầu, đàn tranh của Việt Nam; Shopee với âm thanh thông báo “shopee” đặc trưng,…

2. Âm thanh nhận diện thương hiệu có được bảo hộ quyền tác giả không?

Theo Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ, các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả bao gồm:

  • Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác;
  • Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác;
  • Tác phẩm báo chí;
  • Tác phẩm âm nhạc;
  • Tác phẩm sân khấu;
  • Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự (sau đây gọi chung là tác phẩm điện ảnh);
  • Tác phẩm mỹ thuật, mỹ thuật ứng dụng;
  • Tác phẩm nhiếp ảnh;
  • Tác phẩm kiến trúc;
  • Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình khoa học;
  • Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian;
  • Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.

Từ quy định trên, có thể thấy âm thanh nhận diện thương hiệu không thỏa mãn bất kỳ loại hình tác phẩm nào được bảo hộ quyền tác giả theo Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ. Đặc biệt, cần tránh nhầm lẫn âm thanh nhận diện thương hiệu với một tác phẩm âm nhạc – là một trong những loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả theo Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ. Mặc dù một số âm thanh nhận diện thương hiệu là một đoạn nhạc ngắn, song không thể coi đó là một tác phẩm âm nhạc. Tác phẩm âm nhạc là tác phẩm được thể hiện dưới dạng nhạc nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn (Theo Điều 6 Khoản 4 Nghị định 17/2023/NĐ-CP). Âm thanh nhận diện thương hiệu chỉ là một giai điệu ngắn, kể cả được ký âm lại dưới dạng nhạc nốt cũng không thể được coi là một bản nhạc hoàn chỉnh. Do vậy, âm thanh nhận diện thương hiệu dù là một giai điệu cũng không đủ điều kiện để được coi là một tác phẩm âm nhạc và không được bảo hộ quyền tác giả.

Mặt khác, trong trường hợp âm thanh nhận diện thương hiệu tồn tại dưới dạng bản ghi âm, theo Điều 17 Luật Sở hữu trí tuệ, bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ quyền liên quan nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

  • Bản ghi âm, ghi hình của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình có quốc tịch Việt Nam;
  • Bản ghi âm, ghi hình của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Có thể kết luận rằng, mặc dù âm thanh nhận diện thương hiệu không được bảo hộ quyền tác giả, nhưng bản ghi âm chứa âm thanh nhận diện thương hiệu vẫn được bảo hộ quyền liên quan theo pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam.

Trên đây là bài viết “Âm thanh nhận diện thương hiệu có được bảo hộ quyền tác giả không?”. Mong bài viết này có ích đối với các bạn.

Trân trọng,