Sorting by

×
Skip to main content

Tác giả: Biên Tập Viên

Lưu ý cho doanh nghiệp khi chuyển nhượng quyền tác giả

Tài sản trí tuệ là một trong những nguồn lực quan trọng của doanh nghiệp. Do đó, khi thực hiện các giao dịch chuyển nhượng tài sản trí tuệ, doanh nghiệp phải hết sức cẩn trọng để hạn chế các rủi ro pháp lý, tránh các thiệt hại, tranh chấp không đáng có và đảm bảo được các quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp. Quyền tác giả là một trong những tài sản trí tuệ đặc biệt của doanh nghiệp, gắn liền với quyền nhân thân, quyền tài của tác giả, chủ sở hữu. Vậy khi ký kết, thực hiện việc chuyển nhượng quyền tác giả, doanh nghiệp cần phải lưu ý những gì để đảm bảo được tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp ? Hãy cùng Bản Quyền Việt Nam tìm hiểu bài viết “Lưu ý cho doanh nghiệp khi chuyển nhượng quyền tác giả” dưới đây.

1. Chuyển nhượng quyền tác giả là gì ?

Chuyển nhượng quyền tác giả với tác phẩm là việc chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan chuyển giao quyền sở hữu đối với các quyền quy định tại khoản 3 Điều 19, Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ, cụ thể là các quyền sau đây: quyền công bố tác phẩm; quyền sao chép tác phẩm; quyền làm tác phẩm phái sinh; quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng; quyền phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm; quyền truyền đạt tác phẩm tới công chúng; quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao đối với tác phẩm điện ảnh và chương trình máy tính,..

Do đó, khi doanh nghiệp muốn chuyển nhượng quyền tác giả bất kỳ tác phẩm nào thì doanh nghiệp phải đảm bảo là chủ sở hữu quyền tác giả hợp pháp của tác phẩm.

2. Lưu ý cho Doanh nghiệp khi chuyển nhượng quyền tác giả

Thứ nhất, trường hợp tác phẩm chuyển nhượng có đồng chủ sở hữu thì việc chuyển nhượng phải có sự thỏa thuận, đồng ý của tất cả các đồng chủ sở hữu, trừ khi một hoặc một số đồng chủ sở hữu chuyển nhượng phần riêng biệt, có thể tách ra sử dụng độc lập. Như vậy, trong trường hợp Doanh nghiệp muốn chuyển nhượng quyền tác giả với tác phẩm thì cần xin ý kiến, đồng ý của các đồng chủ sở hữu (nếu có), tránh trường hợp tự mình chuyển nhượng thì lúc này hợp đồng chuyển nhượng có thể sẽ bị vô hiệu, như vậy mục đích của việc chuyển nhượng sẽ không đạt được.

Thứ hai, doanh nghiệp chuyển nhượng quyền tác giả cần xem xét kỹ về năng lực chủ thể của bên nhận chuyển nhượng. Đối với cá nhân cần kiểm tra năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Đối với pháp nhân, doanh nghiệp cần kiểm tra năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân có đáp ứng đầy đủ điều kiện về năng lực chủ thể hay không? Trường hợp cá nhân, pháp nhân nhận chuyển nhượng không đáp ứng năng lực chủ thể , không đảm bảo thực hiện đầy đủ nghĩa vụ sẽ ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của doanh nghiệp chuyển nhượng quyền tác giả.

Thứ ba, Hiện nay, pháp luật quy định hình thức của Hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả phải bằng văn bản nên trường hợp Doanh nghiệp chuyển nhượng quyền tác giả thì cần phải lập thành văn bản, đây được coi là một trong những điều kiện để hợp đồng chuyển nhượng phát sinh hiệu lực.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 48 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019 thì Hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả với tác phẩm cần phải có các nội dung sau:

  • Tên và địa chỉ đầy đủ của bên chuyển nhượng và bên được chuyển nhượng;
  • Căn cứ chuyển nhượng;
  • Giá, phương thức thanh toán;
  • Quyền và nghĩa vụ của các bên;
  • Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.

Ngoài các nội dung trên, Doanh nghiệp có thể xác định và thỏa thuận về các điều khoản liên quan tới cách thức giải quyết khi phát sinh tranh chấp, hướng xử lý trong trường hợp bất khả kháng. Việc quy định các điều khoản trong hợp đồng chuyển nhượng càng chi tiết thì quyền lợi của Doanh nghiệp càng được đảm bảo.

Thứ tư, doanh nghiệp cần có sự phân biệt giữa chuyển nhượng quyền và chuyển giao quyền sử dụng quyền tác giả.

Chuyển nhượng quyền tác giả thì sẽ làm chấm dứt hoàn toàn quyền sở hữu (bao gồm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt) quyền tác giả của tác giả và sau đó chủ sở hữu quyền tác giả sẽ không còn các quyền tác giả mà trước đó mà pháp luật quy định.

Còn đối với việc chuyển giao quyền sử dụng lại có nội dung khác biệt, cụ thể việc chuyển giao quyền sử dụng quyền tác giả được coi như một dạng hợp đồng cho thuê giữa chủ sở hữu quyền tác giả với chủ thể nhận chuyển giao, theo đó, chủ sở hữu quyền tác giả sẽ chỉ cho chủ thể nhận chuyển giao được sử dụng quyền tác giả trong một khoảng thời gian nhất định và sau đó, nếu như khoảng thời gian đó kết thúc, quyền tác giả của chủ thể nhận chuyển quyền cũng sẽ chấm dứt và quyền tác giả sẽ tự động trở về với chủ thể sở hữu quyền tác giả ban đầu.

Trên đây là bài viết Lưu ý doanh nghiệp khi chuyển nhượng quyền tác giả”.Chúng tôi hy vọng bài viết này cung cấp cho bạn và doanh nghiệp những thông tin hữu ích.

Trân trọng,

Lưu ý khi soạn thảo hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả

Hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả là loại hợp đồng mà các bên thỏa thuận chủ sở hữu quyền tác giả sẽ chuyển giao một, một số quyền nhân thân, quyền tài sản của mình cho bên được chuyển nhượng (các tổ chức, cá nhân). Khi soạn thảo các điều khoản trong loại hợp đồng này, các bên cần lưu ý một số nội dung nhất định nhằm phòng tránh những rủi ro có thể xảy ra giữa các bên. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích những nội dung cần lưu ý khi soạn thảo hợp đồng này.

1. Các quyền mà chủ sở hữu quyền tác giả được phép chuyển giao

Chủ sở hữu quyền tác giả có quyền chuyển giao quyền sở hữu của mình cho các cá nhân, tổ chức bất kỳ. Tuy nhiên, pháp luật giới hạn các quyền mà chủ sở hữu được quyền chuyển giao, theo đó chủ sở hữu chỉ được chuyển giao quyền tài sản và quyền công bố tác phẩm (thuộc quyền nhân thân). Quyền tài sản bao gồm các quyền sau:

a) Làm tác phẩm phái sinh;

b) Biểu diễn tác phẩm trước công chúng;

c) Sao chép tác phẩm;

d) Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm;

đ) Phát sóng, truyền đạt đến công chúng tác phẩm bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác;

e) Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.

2. Những nội dung cần được quy định trong hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả

Thứ nhất, về nội dung hợp đồng. Về mặt bản chất, hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả cũng là một loại hợp đồng dân sự và các bên có thể tự do thỏa thuận các nội dung trong hợp đồng. Tuy nhiên, để đảm bảo tính chính xác và chặt chẽ của thỏa thuận, các bên cần quy định đầy đủ những nội dung sau:

  • Thông tin của bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng. Trường hợp một hoặc các bên là cá nhân, cần có thông tin về tên, căn cước công dân, địa chỉ liên hệ, phương thức liên hệ. Trường hợp một hoặc các bên là doanh nghiệp, cần có thông tin về tên doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở, mã số doanh nghiệp, phương thức liên hệ, người đại diện theo pháp luật (hoặc người đại diện theo ủy quyền) giao kết hợp đồng.
  • Đối tượng hợp đồng: Các bên cần ghi rõ thông tin về tác phẩm được chuyển nhượng, thời gian chuyển nhượng, phạm vi chuyển nhượng.
  • Giá, phương thức thanh toán: Giá sẽ do các bên tự thỏa thuận, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tác giả tác phẩm, nội dung tác phẩm, giá trị tác phẩm, thị hiếu khách hàng,… Phương thức thanh toán là cách thức bên nhận chuyển nhượng thanh toán cho bên chuyển nhượng (như bằng tiền mặt, chuyển khoản,…).
  • Quyền và nghĩa vụ các bên: Quyền và nghĩa vụ có thể liên quan đến đối tượng của hợp đồng, phạm vi hợp đồng, phương thức thanh toán,… Đây sẽ là căn cứ để xác định các bên có thực hiện đúng hợp đồng không.
  • Trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng: có thể là phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại hoặc các bên có thể thoả thuận vừa phạt vi phạm vừa bồi thường thiệt hại.
  • Phương thức giải quyết tranh chấp: Thông thường, tranh chấp sẽ được giải quyết trước hết bằng hình thức thương lượng giữa các bên, nếu thương lượng không hiệu quả thì một trong các bên có quyền khởi kiện. Các bên có thể lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp là Trọng tài hoặc Tòa án. Khi lựa chọn Trọng tài giải quyết tranh chấp, các bên cần quy định cụ thể tên của Trung tâm trọng tài; pháp luật, ngôn ngữ để giải quyết tranh chấp (nếu một bên là cá nhân, tổ chức nước ngoài).
  • Điều khoản hiệu lực: Các bên thoả thuận về thời điểm có hiệu lực và hết hiệu lực của hợp đồng.

Bên cạnh những nội dung trên, các bên có thể thỏa thuận các nội dung khác như điều kiện chuyển nhượng, hình thức chuyển nhượng, điều kiện tạm dừng thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng,…..

Thứ hai, về hình thức hợp đồng. Căn cứ điều 48 Luật Sở hữu trí tuệ, hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả phải được lập thành văn bản. Các hình thức khác như lời nói, hành vi đều không có giá trị pháp lý.

Thứ ba, về hậu quả pháp lý của hợp đồng. Sau khi hoàn thành việc chuyển nhượng, chủ sở hữu quyền tác giả đã chuyển giao quyền sở hữu một, một số quyền nhân thân, quyền tài sản của mình cho bên được chuyển nhượng. Kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực, chủ sở hữu không được chuyển nhượng, sử dụng, cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng các quyền đã chuyển nhượng.

Trên đây là bài viết “Lưu ý khi soạn thảo hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả”. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc

Nghệ thuật kiến trúc là một loại hình nghệ thuật lâu đời và ngày càng phát triển phong phú, đa dạng trong đời sống hiện đại. Những tác phẩm kiến trúc không đơn thuần là những thiết kế xây dựng, chúng không chỉ mang lại giá trị sử dụng trên thực tế mà còn mang lại những giá trị nghệ thuật cho cộng đồng. Những tác phẩm kiến trúc được hình thành từ quá trình lao động trí tuệ, chứa đựng những giá trị sáng tạo riêng của tác giả, do đó tác phẩm kiến trúc cũng là một đối tượng bảo hộ của quyền tác giả. Vấn đề bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc sẽ được Bản quyền Việt Nam giải thích rõ trong bài viết dưới đây.

1. Tác phẩm kiến trúc được bảo hộ dưới hình thức nào?

Theo cách hiểu đơn giản, tác phẩm kiến trúc có thể là bản vẽ thiết kế, mô hình thiết kế, sa bàn không gian phối cảnh hoặc những công trình xây dựng. Tác phẩm kiến trúc thường thấy nhất chính là các công trình xây dựng mà hàng ngày chúng ta quan sát được. Tuy nhiên, dưới góc độ pháp lý, định nghĩa cụ thể của tác phẩm kiến trúc vẫn chưa được quy định rõ trong các văn bản luật.

Trong Điều 3 Luật Kiến trúc, các khái niệm “kiến trúc”, “thiết kế kiến trúc” và “công trình kiến trúc” được hiểu như sau:

“Kiến trúc là nghệ thuật và khoa học, kỹ thuật về tổ chức không gian, tạo lập môi trường sống bền vững đáp ứng nhu cầu của con người và xã hội.”

“Thiết kế kiến trúc là việc lập phương án kiến trúc, thể hiện ý tưởng kiến trúc, giải pháp kỹ thuật về kiến trúc trong hồ sơ thiết kế quy hoạch, xây dựng, thiết kế nội thất, ngoại thất và kiến trúc cảnh quan.”

“Công trình kiến trúc là một hoặc tổ hợp công trình, hạng mục công trình được xây dựng theo ý tưởng kiến trúc hoặc thiết kế kiến trúc.”

Theo Luật Sở hữu trí tuệ, tác phẩm kiến trúc là một trong các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả (Điều 14 Khoản 1 điểm i). Nghị định 22/2018/NĐ-CP đã giải thích:

“Tác phẩm kiến trúc quy định tại điểm i khoản 1 Điều 14 của Luật sở hữu trí tuệ là tác phẩm thuộc loại hình kiến trúc, bao gồm:

a) Bản vẽ thiết kế kiến trúc về công trình hoặc tổ hợp các công trình, nội thất, phong cảnh.

b) Công trình kiến trúc.”

Như vậy, tác phẩm kiến trúc được bảo hộ quyền tác giả hiện nay chỉ bao gồm bản vẽ thiết kế kiến trúc về công trình hoặc tổ hợp các công trình, nội thất, phong cảnh và công trình kiến trúc.

2. Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc

Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản, được nêu rõ tại Theo Điều 15 Nghị định 22/2018/NĐ – CP và Điều 19, Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ. Về tổng quan, tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả đều phải tuân theo những quy định chung dưới đây:

  • Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép tổ chức, cá nhân khác thực hiện các quyền nhân thân được phép chuyển nhượng và các quyền tài sản được pháp luật quy định. Tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền nêu trên phải được sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả và trả tiền bản quyền, các quyền lợi vật chất khác (nếu có) cho chủ sở hữu quyền tác giả, trừ trường hợp những trường hợp ngoại lệ không vì mục đích thương mại được quy định tại khoản 3 Điều 20, các điều 25, 25a, 26, 32 và 33 của Luật Sở hữu trí tuệ. Trường hợp làm tác phẩm phái sinh mà ảnh hưởng đến sự toàn vẹn của tác phẩm thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của tác giả.
  • Chủ sở hữu quyền tác giả không có quyền ngăn cấm tổ chức, cá nhân khác thực hiện các hành vi:
    • Sao chép tác phẩm chỉ để thực hiện các quyền khác theo quy định của Luật này; sao chép tạm thời theo một quy trình công nghệ, trong quá trình hoạt động của các thiết bị để truyền phát trong một mạng lưới giữa các bên thứ ba thông qua trung gian hoặc sử dụng hợp pháp tác phẩm, không có mục đích kinh tế độc lập và bản sao bị tự động xóa bỏ, không có khả năng phục hồi lại;
    • Phân phối lần tiếp theo, nhập khẩu để phân phối đối với bản gốc, bản sao tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện hoặc cho phép thực hiện việc phân phối.

Trong đó, tác giả đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả sẽ được hưởng toàn bộ các quyền nhân thân và quyền tài sản đối thuộc quyền tác giả. Trong trường hợp tác giả không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả được hưởng một số quyền nhân thân và chủ sở hữu quyền tác giả được hưởng các quyền tài sản và quyền công bố tác phẩm.

2.1. Trường hợp 1: Tác giả đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả được hưởng các quyền nhân thân và quyền tài sản.

Các quyền nhân thân bao gồm:

  • Đặt tên cho tác phẩm. Tuy nhiên, tác giả có quyền chuyển quyền sử dụng quyền đặt tên tác phẩm cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao quyền tài sản;
  • Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;
  • Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;
  • Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc; không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

Các quyền tài sản bao gồm:

  • Làm tác phẩm phái sinh;
  • Biểu diễn tác phẩm trước công chúng trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các bản ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào tại địa điểm mà công chúng có thể tiếp cận được nhưng công chúng không thể tự do lựa chọn thời gian và từng phần tác phẩm;
  • Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp toàn bộ hoặc một phần tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào;
  • Phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng thông qua bán hoặc hình thức chuyển giao quyền sở hữu khác đối với bản gốc, bản sao tác phẩm dưới dạng hữu hình.
  • Phát sóng, truyền đạt đến công chúng tác phẩm bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác, bao gồm cả việc cung cấp tác phẩm đến công chúng theo cách mà công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do họ lựa chọn;

2.2. Trường hợp 2: Tác giả không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả

Tác giả không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả được hưởng các quyền nhân thân quy định tại các khoản 1, 2 và khoản 4 Điều 19 của Luật sở hữu trí tuệ, cụ thể là:

  • Đặt tên cho tác phẩm. Tuy nhiên, tác giả có quyền chuyển quyền sử dụng quyền đặt tên tác phẩm cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao quyền tài sản;
  • Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;
  • Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc; không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

Chủ sở hữu quyền tác giả được hưởng các quyền quy định tại khoản 3 Điều 19 và Điều 20 của Luật sở hữu trí tuệ, cụ thể là:

  • Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;
  • Làm tác phẩm phái sinh;
  • Biểu diễn tác phẩm trước công chúng trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các bản ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào tại địa điểm mà công chúng có thể tiếp cận được nhưng công chúng không thể tự do lựa chọn thời gian và từng phần tác phẩm;
  • Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp toàn bộ hoặc một phần tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào;
  • Phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng thông qua bán hoặc hình thức chuyển giao quyền sở hữu khác đối với bản gốc, bản sao tác phẩm dưới dạng hữu hình, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 Điều này;
  • Phát sóng, truyền đạt đến công chúng tác phẩm bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác, bao gồm cả việc cung cấp tác phẩm đến công chúng theo cách mà công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do họ lựa chọn;

Trên đây là bài viết “Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng.

Vi phạm “độc quyền bài hát” và các chế tài xử lý

Trong những năm gần đây, khi nền kinh tế giải trí phát triển hơn, thị trường mua bán quyền tác giả, quyền liên quan của bài hát càng trở nên sôi động và đồng thời dấy lên nhiều tranh cãi, đặc biệt là vấn đề “độc quyền bài hát”.Vậy, “ độc quyền bài hát” và vi phạm “độc quyền bài hát” được hiểu như thế nào? Trong bài viết “Vi phạm “độc quyền bài hát” và các chế tài xử lý” này, chúng tôi sẽ làm rõ những vấn đề xoay quanh việc độc quyền khai thác, sử dụng bài hát, vấn đề vi phạm quyền của chủ sở hữu, quyền của những người được chuyển giao quyền sử dụng, khai thác tác phẩm và các chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm nêu trên trên.

1. Hiểu như thế nào là đúng về “độc quyền bài hát” dưới góc độ của Luật Sở hữu trí tuệ

Bài hát là một trong những đối tượng bảo hộ quyền tác giả, thuộc loại hình tác phẩm âm nhạc (Theo Điều 14 Khoản 1 Luật Sở hữu trí tuệ). Theo Điều 10 Nghị định 22/2018/NĐ-CP, tác phẩm âm nhạc là tác phẩm được thể hiện dưới dạng nhạc nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác hoặc được định hình trên bản ghi âm, ghi hình có hoặc không có lời, không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn. Quyền tác giả, quyền liên quan đối với bài hát là tài sản trí tuệ quan trọng của mỗi tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả.

Theo Điều 20 Khoản 2 Luật Sở hữu trí tuệ, tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả được độc quyền thực hiện hoặc cho phép tổ chức, cá nhân khác thực hiện các quyền tài sản quyền công bố tác phẩm. Tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một hoặc một số hoặc toàn bộ quyền thuộc quyền tài sản và quyền công bố tác phẩm thì phải được sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả và trả tiền bản quyền, các quyền lợi vật chất khác (nếu có) cho chủ sở hữu quyền tác giả, trừ những trường hợp ngoại lệ không vì mục đích thương mại do pháp luật quy định, ví dụ như trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận, giới thiệu hoặc minh họa trong tác phẩm của mình, tự sao chép một bản đểnghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại,…[1]

Như vậy, “độc quyền bài hát” có thể được hiểu theo là việc chỉ có một cá nhân, một nhóm cá nhân hoặc tổ chức duy nhất được nắm giữ một, một số hoặc toàn bộ quyền tài sản, và quyền công bố bài hát trong một khoảng thời gian nhất định, không kể đến những trường hợp ngoại lệ không vì mục đích thương mại được quy định trong luật. Người nắm giữ “độc quyền bài hát” có thể là các tác giả đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả của bài hát, chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan đối với bài hát hoặc những cá nhân, tổ chức được chuyển giao quyền với thỏa thuận rằng chỉ duy nhất cá nhân, tổ chức đó được quyền sử dụng một hoặc một số quyền tác giả, quyền liên quan trong một khoảng thời gian nhất định.

2. Những hành vi được coi là “vi phạm độc quyền bài hát” phổ biến

Bản chất của hành vi “vi phạm độc quyền bài hát” là sự xâm phạm quyền tác giả đối với các cá nhân, tổ chức nắm giữ quyền độc quyền khai thác, sử dụng bài hát đó, tức là việc cá nhân, tổ chức không phải là tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, không có quyền khai thác, sử dụng hoặc không được cho phép vẫn tự ý khai thác, sử dụng các quyền thuộc quyền tác giả trong thời gian được bảo hộ, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu. Một số hành vi xâm phạm quyền “độc quyền bài hát” phổ biến hiện nay được đề cập như sau đây:

  • Việc sử dụng tác phẩm không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả, không trả tiền nhuận bút, thù lao và các quyền lợi vật chất khác theo quy định của pháp luật: Ca sĩ không sử dụng bài hát đúng với mục đích biểu diễn ban đầu khi xin phép tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và không trả tiền nhuận bút cho tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả;  những cá nhân, tổ chức tự ghi âm, ghi hình bài hát và đăng tải trên các nền tảng video, phát sóng như Youtube (thường được gọi là “cover” bài hát), tự phát sóng trực tiếp (“livestream”) cũng như hát các bài hát trên các trang mạng xã hội và thu lợi nhuận mà không được nhạc sĩ cho phép.
  • Sản xuất bản sao, phân phối hoặc truyền đạt bài hát đến công chúng: Nhiều trang web đã đăng tải bản sao bản ghi âm, ghi hình bài hát và cho phép người khác tải xuống những bản sao đó để kiếm thu nhập trong khi không xin phép đăng tải tác phẩm, không trả tiền cho tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan của các bản ghi âm, ghi hình đó.
  • Hành vi tự ý cắt xén, sửa chữa tác phẩm cũ ng là một hành vi vi phạm thường thấy. Nếu các cá nhân, tổ chức có hành vi sửa chữa, thay lời của bài hát mà không được nhạc sĩ sáng tác bài hát cho phép, hành vi đó cũng bị xem là xâm phạm đến quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm.
  • Thêm vào đó, cần lưu ý trường hợp tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả của bài hát đã chuyển quyền độc quyền sử dụng bài hát cho nghệ sĩ A trong một thời gian và đã chấm dứt hợp đồng; sau đó tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả lại chuyển nhượng quyền tác giả hoặc chuyển quyền độc quyền sử dụng bài hát cho ca sĩ B, khi đó nếu nghệ sĩ A vẫn tiếp tục sử dụng và biểu diễn bài hát đó trong các buổi biểu diễn vì mục đích thương mại, nghệ sĩ A sẽ bị xem là đã thực hiện hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan đối với tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và ca sĩ B.

3. Các chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm “độc quyền bài hát”

Theo quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ, bất cứ cá nhân hay tổ chức nào có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, trong đó có hành vi xâm phạm quyền độc quyền khai thác, sử dụng bài hát đều có thể sẽ bị xử lý bằng chế tài dân sự, hành chính hoặc hình sự căn cứ vào tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi xâm phạm.

  • Chế tài dân sự

Khi có hành vi xâm phạm quyền độc quyền khai thác, sử dụng bài hát, tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả có thể khởi kiện vụ án ra Tòa và yêu cầu Tòa án có thẩm quyền áp dụng các biện pháp dân sự như: (i) buộc người vi phạm phải chấm dứt hành vi xâm phạm; (ii) buộc xin lỗi, cải chính công khai; (iii) buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; (iv) buộc bồi thường thiệt hại; (v) buộc tiêu huỷ; (vi) buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại, không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.

  • Chế tài hành chính

Khi có yêu cầu từ chủ thể của quyền, hoặc từ các tổ chức, cá nhân khác mà đã phát hiện hoặc bị thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền độc quyền khai thác, sử dụng bài hát, hoặc khi hành vi vi phạm bị phát hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền, hành vi vi phạm đó sẽ bị các cơ quan này áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính theo quy định. Các cá nhân, tổ chức nào có hành vi hành chính “vi phạm độc quyền bài hát” thì sẽ có thể bị xử phạt theo các quy định tại Điều 12, Điều 17, Điều 24, Điều 25 đến Điều 31, Điều 33 và Điều 34 tại Nghị định số 131/2013/NĐ-CP và bị buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả như buộc phải sửa lại cho đúng họ và tên tác giả, tên tác phẩm, tên người biểu diễn; dỡ bỏ bản sao của tác phẩm mà vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường mạng và kỹ thuật (“dỡ bỏ bản sao tác phẩm”); buộc hoàn trả lại cho chủ sở hữu của quyền tác giả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm đó.

  • Chế tài hình sự

Khi hành vi vi phạm có yếu tố cấu thành tội phạm, cá nhân, pháp nhân nào thực hiện hành vi vi phạm đó sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể, theo quy định tại Điều 225 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017, nếu một cá nhân không được phép của chủ thể quyền tác giả mà lại cố ý sao chép tác phẩm hoặc phân phối đến công chúng bản sao của tác phẩm xâm phạm đến quyền tác giả đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 50.000.000 trở lên hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả từ 100.000.000 đồng trở lên hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 100.000.000 đồng trở lên thì bị phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù. Pháp nhân thương mại vi phạm sẽ bị phạt tiền hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn, hoặc bị cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vự nhất định, hoặc cấm huy động vốn trong khoảng thời gian nhất định.

Các quyền tác giả đối với bài hát của nhạc sĩ sẽ được pháp luật SHTT bảo hộ hợp pháp kể cả khi nhạc sĩ không nộp đơn để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, vì quyền tác giả đã phát sinh ngay khi bài hát được sáng tạo ra và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.

Tuy nhiên, để đảm bảo quyền được bảo vệ của nhạc sĩ theo quy định, nhạc sĩ có thể đăng ký quyền tác giả với Phòng Đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan, Cục Bản quyền tác giả tại Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh. Việc nhạc sĩ được cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả sẽ giúp tăng cường khả năng bảo vệ quyền lợi, chứng minh quyền của nhạc sĩ khi có phát sinh tranh chấp.

Trân trọng,


[1] Xem quy định cụ thể trong các bài viết sau đây:

Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao;

Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao

Thủ tục đăng ký quyền tác giả đối với tác phẩm bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ

Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ là một trong những loại tác phẩm được đăng ký quyền tác giả theo tinh thần của Luật Sở hữu trí tuệ. Việc chủ sở hữu, tác giả của những bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ thực hiện đăng ký bản quyền tác giả là biện pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi có sự xâm phạm và là cơ sở chứng minh thời điểm phát sinh quyền. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ tập trung làm rõ những trình tự, thủ tục khi đăng ký bản quyền đối với loại tác phẩm này.

1. Điều kiện đăng ký quyền tác giả đối với tác phẩm bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ

Chủ sở hữu, tác giả tác phẩm khi muốn đăng ký bản quyền đối với những bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ cần đáp ứng điều kiện sau:

Thứ nhất, tác phẩm đăng ký phải có đủ các đặc tính dưới đây:

  • Tác phẩm cần phải có tính sáng tạo: Phải được sáng tạo trực tiếp bởi tác giả, không được sao chép các tác phẩm khác dưới bất cứ hình thức nào;
  • Tác phẩm phải được thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định. Ví dụ như: Bản họa đồ, sơ đồ phải được thể hiện qua một bản vẽ, phác họa trên giấy…

Thứ hai, về chủ thể là tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả cần có đầy đủ điều kiện bảo hộ quyền tác giả theo Điều 12a, Điều 13, Điều 36 đến Điều 42 Luật Sở hữu trí tuệ như sau:

  • Tác giả phải là người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm.
  • Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân nắm giữ một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản đối với tác phẩm và quyền công bố công bố tác phẩm.
  • Chủ sở hữu quyền tác giả là cá nhân, tổ chức thuộc một trong các trường hợp sau:
    • giao nhiệm vụ cho tác giả hoặc giao kết hợp đồng với tác giả;
    • được thừa kế quyền tác giả;
    • được chuyển giao quyền tác giả;
    • là Nhà nước đối với tác phẩm khuyết danh không có người quản lý tác phẩm, tác phẩm còn trong thời hạn bảo hộ mà chủ sở hữu quyền tác giả chết không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận di sản hoặc không được quyền hưởng di sản, tác phẩm được chủ sở hữu quyền tác giả chuyển giao quyền sở hữu cho Nhà nước.
  • Là cá nhân và tổ chức Việt Nam, nước ngoài có tác phẩm được công bố đồng thời tại Việt Nam trong thời gian 30 ngày kể từ ngày tác phẩm đó được công bố lần đầu ở nước khác.
  • Là cá nhân, tổ chức Việt Nam và nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam mà chưa công bố ở bất kỳ nước nào.
  • Là cá nhân và tổ chức nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo quy định của điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

2. Hồ sơ đăng ký quyền tác giả đối với tác phẩm bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ

Tác giả, chủ sở hữu tác phẩm hoặc tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả được ủy quyền sẽ chuẩn bị hồ sơ đăng ký. Hồ sơ sẽ bao gồm những tài liệu sau:

  • Tờ khai (đơn) đăng ký bản quyền tác giả theo mẫu của Cục bản quyền tác giả;
  • 02 bản tác phẩm đăng ký: 02 bản vẽ hoặc bản in trên giấy;
  • Giấy uỷ quyền hoặc hợp đồng ủy quyền (Trong trường hợp tác giả, chủ sở hữu ủy quyền);
  • Tài liệu chứng minh là chủ sở hữu quyền do tự sáng tạo hoặc do giao nhiệm vụ sáng tạo, giao kết hợp đồng sáng tạo, được thừa kế, được chuyển giao quyền;
  • Văn bản thỏa thuận giữa các đồng tác giả trong trường hợp tác phẩm có nhiều tác giả;
  • Văn bản đồng ý của các đồng chủ sở hữu, nếu quyền tác giả, quyền liên quan thuộc sở hữu chung;
  • Chứng minh thư nhân dân/thẻ căn cước/hộ chiếu của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm (bản sao) hoặc tài liệu chứng minh tư cách hoạt động của tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, tổ chức là chủ sở hữu tác phẩm (bản sao).

3. Thủ tục đăng ký quyền tác giả đối với tác phẩm bản họa đồ, bản đồ, sơ đồ, bản vẽ

Thủ tục đăng ký quyền tác giả đối với tác phẩm bản họa đồ, sơ đồ, bản vẽ được quy định như sau:

Bước 1: Nộp hồ sơ

Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan trực tiếp hoặc ủy quyền cho tổ chức, cá nhân khác nộp 01 bộ hồ sơ đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan tại  trụ sở Cục Bản quyền tác giả hoặc Văn phòng đại diện của Cục Bản quyền tác giả tại thành phố Hồ Chí Minh, Văn phòng đại diện của Cục Bản quyền tác giả tại thành phố Đà Nẵng.

Bước 2: Trả kết quả

Trong thời hạn mười lăm ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ, cơ quan quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan có trách nhiệm cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan cho người nộp hồ sơ. Trong trường hợp từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan thì cơ quan quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người nộp hồ sơ.

Trên đây là bài viết “Thủ tục đăng ký quyền tác giả đối với tác phẩm bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh

Điện ảnh là loại hình nghệ thuật trẻ, bắt đầu xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX nhưng có tốc độ phát triển vô cùng nhanh chóng, đáp ứng thị hiếu nghệ thuật của con người. Sau hơn 1 thế kỷ phát triển, điện ảnh không chỉ đem lại những giá trị văn hóa, nghệ thuật cho con người mà còn trở thành nền công nghiệp lớn mạnh, có giá trị kinh tế cao. Mỗi tác phẩm điện ảnh đều phản ánh sự sáng tạo của những người làm nên nó, thể hiện ở các yếu tố như nội dung kịch bản, diễn xuất của các diễn viên, sự sắp đặt của đạo diễn, âm nhạc, khung cảnh, kỹ xảo,…Mỗi tác phẩm điện ảnh đều là thành quả sau khoảng thời gian lao động, sáng tạo tâm huyết của một tập thể. Vậy, thành quả sáng tạo đó được bảo vệ như thế nào? Bản quyền Việt Nam xin được làm rõ vấn đề trên thông qua bài viết Quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh dưới đây.

1. Tác phẩm điện ảnh

Điện ảnh, môn nghệ thuật thứ bảy, là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, đặc trưng bởi việc kết hợp giữa kịch bản văn học, diễn xuất của diễn viên và việc sử dụng kỹ thuật ghi lại hình ảnh, âm thanh, ánh sáng để tạo thành tác phẩm, gọi là nghệ thuật quay phim, dụng phim.  

Nhắc đến tác phẩm điện ảnh, mọi người đều đã quen thuộc với tên gọi “phim”. Về định nghĩa của phim, theo quy định tại Điều 3 Khoản 2 của Luật Điện ảnh:

“Phim là tác phẩm điện ảnh, có nội dung, được biểu hiện bằng hình ảnh động liên tiếp hoặc hình ảnh do các thiết bị kỹ thuật, công nghệ tạo ra; có hoặc không có âm thanh và các hiệu ứng khác theo nguyên tắc của ngôn ngữ điện ảnh; được ghi trên các chất liệu, bằng kỹ thuật số hoặc phương tiện kỹ thuật khác và được phổ biến đến người xem, bao gồm các loại hình phim truyện, phim tài liệu, phim khoa học, phim hoạt hình và phim kết hợp nhiều loại hình.

Phim không bao gồm sản phẩm ghi hình nhằm mục đích phổ biến tin tức trên dịch vụ phát thanh, truyền hình, không gian mạng; chương trình biểu diễn nghệ thuật, trò chơi điện tử; sản phẩm ghi hình về hoạt động của một hoặc nhiều người, mô tả các sự kiện, tình huống hoặc chương trình thực tế.”

Bên cạnh đó, Điều 12 Khoản 1 Nghị định 22/2018/NĐ – CP quy định: “Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự quy định tại điểm e khoản 1 Điều 14 của Luật sở hữu trí tuệ là tác phẩm được thể hiện bằng hình ảnh động kết hợp hoặc không kết hợp với âm thanh và các phương tiện khác theo nguyên tắc của ngôn ngữ điện ảnh. Hình ảnh tĩnh được lấy ra từ một tác phẩm điện ảnh là một phần của tác phẩm điện ảnh đó.”

2. Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh

Theo Điều 21 Khoản 1 Luật Sở hữu trí tuệ và Điều 12 Nghị định 22/2018/NĐ – CP:

  • Biên kịch, đạo diễn được hưởng một số quyền nhân thân, đó là quyền đặt tên cho tác phẩm hoặc cho phép người nhận chuyển giao quyền tài sản đặt tên cho tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; quyền được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc; không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
  • Quay phim, dựng phim, sáng tác âm nhạc, thiết kế mỹ thuật, thiết kế âm thanh, ánh sáng, kỹ xảo, diễn viên điện ảnh và những người thực hiện các công việc khác có tính sáng tạo đối với tác phẩm điện ảnh được hưởng quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng.
  • Tổ chức, cá nhân đầu tư tài chính và cơ sở vật chất – kỹ thuật để sản xuất tác phẩm điện ảnh là chủ sở hữu các quyền: quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm, quyền làm tác phẩm phái sinh, biểu diễn tác phẩm trước công chúng, sao chép tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng bản gốc, bản sao tác phẩm dưới dạng hữu hình thông qua bán hoặc hình thức chuyển giao quyền sở hữu khác, phát sóng, truyền đạt đến công chúng tác phẩm bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác trừ trường hợp có thỏa thuận khác bằng văn bản.
  • Tổ chức, cá nhân đầu tư tài chính và cơ sở vật chất – kỹ thuật để sản xuất tác phẩm điện ảnh có thể thỏa thuận với biên kịch, đạo diễn về việc đặt tên, sửa đổi tác phẩm.
  • Trường hợp kịch bản, tác phẩm âm nhạc trong tác phẩm điện ảnh được sử dụng độc lập thì tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả của kịch bản, tác phẩm âm nhạc được hưởng quyền tác giả một cách độc lập đối với kịch bản, tác phẩm âm nhạc đó, trừ trường hợp có thỏa thuận khác bằng văn bản.

Trên đây là bài viết “Quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Phân biệt đồng tác giả với tập thể tác giả

Những khái niệm liên quan đến tác giả, đồng tác giả hay tập thể tác giả luôn gây ra những sự nhầm lẫn trong việc nhận diện và xác định các quyền lợi hợp pháp liên quan. Trong số những khái niệm đó thì đồng tác giả và tập thể tác giả được xem là khá khó khăn trong việc phân biệt. Bài viết “Phân biệt đồng tác giả với tập thể tác giả” của VCD sẽ làm rõ hơn khái niệm đồng tác giả và tập thể tác giả để giúp bạn đọc có thể phân biệt hai khái niệm này.

1. Đồng tác giả

Theo Điều 6 Nghị định 22/2018/NĐ-CP về hướng dẫn Luật sở hữu trí tuệ quy định về khái niệm đồng tác giả như sau:

Đồng tác giả là những tác giả cùng trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học”.

Người hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu cho người khác sáng tạo ra tác phẩm không được công nhận là tác giả hoặc đồng tác giả”.

Vậy, với định nghĩa trên, đồng tác giả phải là người trực tiếp lao động sáng tạo để tạo nên tác phẩm, có đóng góp công sức thực tế vào việc định hình tác phẩm. Những người chỉ đưa ra ý tưởng, đóng góp ý kiến, hỗ trợ hoặc cung cấp tư liệu cho tác giả mà không trực tiếp tham gia vào quá trình định hình tác phẩm thì không được coi là đồng tác giả.

Người là đồng tác giả cũng có những quyền như tác giả thông thường. Tuy nhiên, cần chú ý có sự khác nhau về quyền của các đồng tác giả trong hai trường hợp tác giả đồng thời là chủ sở hữu của tác phẩm và tác giả không đồng thời là chủ sở hữu của tác phẩm.

Cụ thể, các đồng tác giả sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất – kỹ thuật của mình để cùng sáng tạo ra tác phẩm thì các đồng tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm, được hưởng toàn bộ những quyền nhân thân và các quyền tài sản được quy định tại Điều 19 và Điều 20 của Luật Sở hữu trí tuệ đối với tác phẩm do họ cùng sáng tạo ra.

2. Tập thể tác giả

Hiện nay, pháp luật chưa có định nghĩa cụ thể về tập thể tác giả. Tuy nhiên trên thực tế, có một số loại hình tác phẩm mang những đặc trưng riêng, được tạo thành hoàn chỉnh từ loại hình nghệ thuật khác nhau, tách biệt tuy nhiên ghép lại thành tổng thể tác phẩm. Cụ thể, hai loại hình có thể thấy rõ nhất chính là tác phẩm sân khấu và tác phẩm điện ảnh.

Nghị định 22/2018/NĐ-CP cũng quy định tại Điều 11 và Điều 12 về tác giả sáng tác tác phẩm sân khấu điện ảnh là các tác giả quy định tại khoản 1 Điều 21 Luật Sở hữu trí tuệ.

Cụ thể, đối với tác phẩm điện ảnh, biên kịch, đạo diễn được hưởng quyền nhân thân bao gồm quyền đặt tên cho tác phẩm hoặc cho phép người nhận chuyển giao quyền tài sản đặt tên cho tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; quyền được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc; không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả. Những người quay phim, dựng phim, sáng tác âm nhạc, thiết kế mỹ thuật, thiết kế âm thanh, ánh sáng, kỹ xảo, diễn viên điện ảnh và những người thực hiện các công việc khác có tính sáng tạo đối với tác phẩm điện ảnh được hưởng quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng.

Đối với tác phẩm sân khấu, tác giả kịch bản sân khấu được hưởng quyền nhân thân là quyền đặt tên cho tác phẩm hoặc cho phép người nhận chuyển giao quyền tài sản đặt tên cho tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; quyền được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc; không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả. Những người là tác giả tác phẩm văn học, tác giả tác phẩm âm nhạc, đạo diễn sân khấu, chỉ huy âm nhạc, biên đạo múa, thiết kế sân khấu, phục trang và những người thực hiện các công việc khác có tính sáng tạo đối với tác phẩm sân khấu được hưởng quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng.

Ta có thể hiểu tập thể tác giả là những người cùng trực tiếp sáng tạo nên tác phẩm. Tuy nhiên khác với đồng tác giả thì tập thể tác giả chỉ có thể được áp dụng đối với tác phẩm sân khấu và điện ảnh. Dù là tập thể nhưng mỗi chủ thể có thể làm một phần tác phẩm tách biệt nhau và tổng hợp các phần tạo nên một chỉnh thể tác phẩm thống nhất và hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, đối với tập thể tác giả, có thể thấy rằng những người có vai trò chủ chốt, quyết định, chi phối tổng thể tác phẩm trong việc định hình tác phẩm từ nội dung tới hình thức thể hiện sẽ nắm giữ nhiều quyền hơn so với những người đóng vai trò thực hiện từng phần trong việc định hình tác phẩm dưới một hình thức thể hiện nhất định mà không chi phối, quyết định nội dung tác phẩm.

Trong tập thể tác giả thì các tác giả sẽ là chủ thể được hưởng các quyền nhân thân (trừ quyền công bố tác phẩm) và được nhận tiền thù lao từ chủ sở hữu. Còn quyền tài sản và quyền công bố tác phẩm sẽ thuộc về tổ chức, cá nhân đầu tư tài chính; cơ sở vật chất, kỹ thuật để sản xuất tác phẩm.

Trên đây là bài viết “Phân biệt đồng tác giả với tập thể tác giả”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng

Quyền tác giả đối với tác phẩm sân khấu

Nghệ thuật sân khấu là một loại hình nghệ thuật biểu diễn có lịch sử lâu đời. Nghệ thuật sân khấu đến nay đã được xây dựng và phát triển vô cùng phong phú từ số lượng loại hình đến số lượng tác phẩm, chỉ tính riêng tại Việt Nam đã có đến hơn 30 loại hình sân khấu truyền thống. Mỗi tác phẩm sân khấu đều thể hiện sự sáng tạo độc đáo của những người tạo ra nó, là kết quả của quá trình lao động tập thể trong một thời gian dài, từ xây dựng kịch bản, thiết kế sân khấu tới quá trình luyện tập và biểu diễn trước công chúng. Do đó, nhằm bảo hộ thành quả lao động của những người sáng tạo, việc chú trọng bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm sân khấu là cần thiết. Để tìm hiểu rõ ràng về quyền tác giả đối với tác phẩm sân khấu, Bản quyền Việt Nam đưa ra cho Quý độc giả nội dung cơ bản về vấn đề này trong bài viết.

1. Nghệ thuật sân khấu và tác phẩm sân khấu

Cùng với điện ảnh, nghệ thuật sân khấu là loại hình nghệ thuật tổng hợp. Có nghĩa là, sân khấu tổng hòa trong nghệ thuật của mình nhiều loại hình nghệ thuật khác, bao gồm nhưng không đồng thời bao gồm tất cả các loại hình văn học, âm nhạc, múa, mỹ thuật, kiến trúc,…Ba chủ thể sáng tạo cơ bản tạo nên một tác phẩm sân khấu là nhà viết kịch, nhà đạo diễn và những người biểu diễn. Sân khấu truyền tải những nội dung, tư tưởng của tác phẩm tới người đọc bằng những hành động (hành động hình thể, hành động tâm lý, hành động ngôn ngữ) thông qua sự biểu đạt (diễn xuất) của người biểu diễn. Trong hành trình phát triển, nghệ thuật sân khấu được làm phong phú và hoàn thiện hơn qua việc sử dụng những yếu tố như kỹ xảo, âm thanh, ánh sáng hiện đại, đem đến khả năng diễn đạt ấn tượng tác phẩm tới công chúng.

Dưới góc độ sở hữu trí tuệ, tác phẩm sân khấu là một trong những loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả theo quy định tại Điều 14 Khoản 1 Luật Sở hữu trí tuệ.

Theo Điều 11 Khoản 1 Nghị định 22/2018/NĐ – CP: “Tác phẩm sân khấu quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 14 của Luật sở hữu trí tuệ là tác phẩm thuộc loại hình nghệ thuật biểu diễn, bao gồm: Chèo, tuồng, cải lương, múa rối, kịch nói, kịch dân ca, kịch hình thể, nhạc kịch, xiếc, tấu hài, tạp kỹ và các loại hình nghệ thuật biểu diễn khác.”

Những chủ thể được coi là các tác giả của tác phẩm sân khấu bao gồm tác giả kịch bản sân khấu, tác giả tác phẩm văn học, tác giả tác phẩm âm nhạc, đạo diễn sân khấu, chỉ huy âm nhạc, biên đạo múa, thiết kế sân khấu, phục trang và những người thực hiện các công việc khác có tính sáng tạo đối với tác phẩm sân khấu. Riêng đối với người biểu diễn, quyền của người biểu diễn đối với tác phẩm được gọi là quyền liên quan mà không gọi là quyền tác giả.

2. Quyền tác giả đối với tác phẩm sân khấu

Theo Điều 21 Khoản 2, Điều 29 Luật Sở hữu trí tuệ và Điều 11, Điều 29 Nghị định 22/2018/NĐ – CP:

Trường hợp 1: Trong trường hợp tác giả đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn đồng thời là chủ sở hữu quyền đối với cuộc biểu diễn thì tác giả, người biểu diễn có đầy đủ các quyền nhân thân và quyền tài sản thuộc quyền tác giả và quyền liên quan đối với tác phẩm. Nội dung các quyền được quy định cụ thể tại Điều 19, 20 và 29 Luật Sở hữu trí tuệ và được nêu rõ trong trường hợp dưới đây.  

Trường hợp 2: Trong trường hợp tác giả không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn không đồng thời là chủ sở hữu quyền đối với cuộc biểu diễn thì tác giả, người biểu diễn có các quyền như sau:

  • Tác giả kịch bản sân khấu được hưởng các quyền nhân thân thuộc quyền tác giả, đó là quyền đặt tên cho tác phẩm hoặc cho phép người nhận chuyển giao quyền tài sản đặt tên cho tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; quyền được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc; không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
  • Các tác giả khác của tác phẩm sân khấu, bao gồm tác giả tác phẩm văn học, tác giả tác phẩm âm nhạc, đạo diễn sân khấu, chỉ huy âm nhạc, biên đạo múa, thiết kế sân khấu, phục trang và những người thực hiện các công việc khác có tính sáng tạo đối với tác phẩm sân khấu được hưởng quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng.
  • Tổ chức, cá nhân đầu tư tài chính và cơ sở vật chất – kỹ thuật để xây dựng tác phẩm sân khấu là chủ sở hữu quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm, quyền làm tác phẩm phái sinh, biểu diễn tác phẩm trước công chúng, sao chép tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng bản gốc, bản sao tác phẩm dưới dạng hữu hình thông qua bán hoặc hình thức chuyển giao quyền sở hữu khác, phát sóng, truyền đạt đến công chúng tác phẩm bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác, trừ trường hợp có thỏa thuận khác bằng văn bản. Các tổ chức, cá nhân nêu trên có nghĩa vụ trả tiền bản quyền, các quyền lợi vật chất khác (nếu có) theo hợp đồng với các tác giả kịch bản sân khấu và các tác giả khác của tác phẩm sân khấu.
  • Tổ chức, cá nhân đầu tư tài chính và cơ sở vật chất – kỹ thuật để xây dựng tác phẩm sân khấu có thể thỏa thuận với các tác giả của tác phẩm sân khấu về việc đặt tên, sửa đổi tác phẩm.
  • Trường hợp tác phẩm văn học, tác phẩm âm nhạc trong tác phẩm sân khấu được sử dụng độc lập thì tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả của tác phẩm văn học, tác phẩm âm nhạc đó được hưởng quyền tác giả một cách độc lập đối với tác phẩm văn học, tác phẩm âm nhạc đó, trừ trường hợp có thỏa thuận khác bằng văn bản.
  • Người biểu diễn được hưởng các quyền nhân thân thuộc quyền liên quan, bao gồm quyền được giới thiệu tên khi biểu diễn, khi phát hành bản ghi âm, ghi hình, phát sóng cuộc biểu diễn; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của hình tượng biểu diễn không cho người khác xuyên tạc; không cho người khác sửa đổi, cắt xén dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của người biểu diễn.
  • Chủ sở hữu quyền đối với cuộc biểu diễn được hưởng các quyền tài sản thuộc quyền liên quan, bao gồm quyền định hình cuộc biểu diễn trực tiếp của mình trên bản ghi âm, ghi hình; sao chép cuộc biểu diễn của mình đã được định hình trên bản ghi âm, ghi hình bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào; phát sóng, truyền đạt đến công chúng cuộc biểu diễn chưa được định hình của mình theo cách mà công chúng có thể tiếp cận được, nghĩa là được quyền thực hiện việc phổ biến cuộc biểu diễn chưa được định hình đến công chúng bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào ngoài phát sóng; phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng thông qua bán hoặc hình thức chuyển giao quyền sở hữu khác đối với bản gốc, bản sao bản định hình cuộc biểu diễn của mình dưới dạng hữu hình; cho thuê thương mại tới công chúng bản gốc, bản sao cuộc biểu diễn của mình đã được định hình trong bản ghi âm, ghi hình, kể cả sau khi được phân phối bởi người biểu diễn hoặc với sự cho phép của người biểu diễn; phát sóng, truyền đạt đến công chúng bản định hình cuộc biểu diễn của mình, bao gồm cả cung cấp đến công chúng bản định hình cuộc biểu diễn theo cách mà công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do họ lựa chọn.

Trên đây là bài viết “Quyền tác giả đối với tác phẩm sân khấu”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng

Quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh

Nhiếp ảnh là một loại hình nghệ thuật được ưa chuộng hiện này, ta có thể bắt gặp những tác phẩm nhiếp ảnh hàng ngày, ở trên mạng xã hội, ở các triển lãm ảnh hoặc ngay cả trên đường phố. Những tác phẩm này có thể được tạo ra bởi các nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp hoặc những người nghiệp dư có đam mê. Vậy những tác phẩm nhiếp ảnh có được bảo hộ quyền tác giả hay không, mời quý bạn đọc theo dõi bài viết dưới đây của VCD để tìm hiểu thêm về vấn đề này.

1. Tác phẩm nhiếp ảnh là gì?

Mặc dù từ thế kỷ 11, con người đã khám phá ra cách sử dụng “buồng tối” như một chiếc máy ảnh đầu tiên, nhưng đến tận thế kỷ 19 thì các máy ảnh và kỹ thuật chụp ảnh mới phát triển hoàn thiện.  Năm 1839, Viện Khoa học và Viện Mỹ thuật của Học viện học thuật Pháp đã công nhận phương pháp nhiếp ảnh tấm bạc của họa sĩ người Pháp Louis-Jacques-Mandé Daguerre (1787 – 1851), là khởi nguồn của nghệ thuật nhiếp ảnh hiện đại. Nghệ thuật nhiếp ảnh đến nay có lịch sử phát triển 183 năm, các kỹ thuật và công nghệ cũng không ngừng được áp dụng trong nhiếp ảnh, từ việc sử dụng những chiếc máy ảnh cơ học cho tới những chiếc máy ảnh kỹ thuật số hiện đại. Các tác phẩm nhiếp ảnh dưới dạng ảnh phim hoặc ảnh kỹ thuật số đều được coi là các tác phẩm nghệ thuật và được bảo hộ quyền tác giả.

Để tìm hiểu định nghĩa chính xác của tác phẩm nhiếp ảnh, Điều 14 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 2 năm 2018 quy định cụ thể như sau:

Tác phẩm nhiếp ảnh quy định tại là tác phẩm thể hiện hình ảnh thế giới khách quan trên vật liệu bắt sáng hoặc trên phương tiện mà hình ảnh được tạo ra, hay có thể được tạo ra bằng các phương pháp hóa học, điện tử hoặc phương pháp kỹ thuật khác. Tác phẩm nhiếp ảnh có thể có chú thích hoặc không có chú thích”.

Có thể hiểu rằng, tác phẩm nhiếp ảnh được hiểu là kết quả của hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực nghệ thuật, tác phẩm thể hiện hình ảnh của thế giới khách quan trên vật liệu bắt sáng hoặc trên phương tiện mà hình ảnh được tạo ra hay có thể được tạo ra bằng bất cứ phương pháp kỹ thuật nào.Tác phẩm nhiếp ảnh là một trong những đối tượng được bảo hộ bản quyền theo quy định tại Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ.

2. Tác phẩm nhiếp ảnh có được bảo hộ quyền tác giả không?

Căn cứ vào Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ quy định thì các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả bao gồm:

  • Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác;
  • Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác;
  • Tác phẩm báo chí;
  • Tác phẩm âm nhạc;
  • Tác phẩm sân khấu;
  • Tác phẩm điện ảnh;
  • Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng;
  • Tác phẩm nhiếp ảnh;
  • Tác phẩm kiến trúc;
  • Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình khoa học;
  • Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian;
  • Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.

Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, đối tượng bảo hộ của quyền tác giả là những tác phẩm được tổ chức, cá nhân sáng tạo ra hoặc sở hữu. Các tác phẩm nhiếp ảnh thuộc một trong số những loại hình được liệt kê tại Điều 14 của Luật SHTT, có thể thấy, pháp luật Việt Nam đã quy định cứng về những đối tượng được bảo hộ quyền tác giả.

Theo Công ước Berne, Điều 2.1, các tác phẩm nghệ thuật có thể được biểu hiện theo bất kỳ phương thức hay dưới hình thức nào, chẳng hạn như sách, tập in nhỏ và các bản viết khác… ; các tác phẩm nhiếp ảnh và các tác phẩm được diễn tả bằng một kỹ thuật tương tự như nhiếp ảnh cũng như vậy. Như đã phân tích, để một tác phẩm nhiếp ảnh được bảo hộ, trước hết, nó phải được định hình và tồn tại dưới dạng một loại hình nhất định, pháp luật không bảo hộ quyền tác giả tác phẩm nghệ thuật khi nó mới chỉ là ý tưởng sáng tạo.

3. Điều kiện đăng kí bảo hộ đối với tác phẩm nhiếp ảnh

Một tác phẩm nhiếp ảnh được bảo hộ khi có đủ điều kiện sau đây:

–          Do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác.

Khoản 3 Điều 14 Luật SHTT quy định, tác phẩm nhiếp ảnh phải do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác. Do đó, tác phẩm nhiếp ảnh phải do chính tác giả sáng tạo ra, không phải là sự sao chép từ tác phẩm khác.

Cá nhân, pháp nhân nước ngoài là tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh có thể trực tiếp hoặc ủy quyền cho tổ chức, cá nhân khác nộp hồ sơ đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan tại trụ sở Cục Bản quyền tác giả hoặc Văn phòng đại diện của Cục Bản quyền tác giả hoặc Sở VHTTDL nơi tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả cư trú hoặc có trụ sở.

Sau khi đăng ký chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh theo quy định tại Điều 49 Luật SHTT, tác giả sẽ được cấp giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh. Đây không phải là thủ tục bắt buộc để hưởng quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh, chủ sở hữu có quyền đăng ký hoặc không đăng ký mà quyền của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm nhiếp ảnh vẫn được bảo hộ theo nguyên tắc bảo hộ tự động. Tuy nhiên, việc đăng ký quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh có ý nghĩa rất lớn đối với chủ sở hữu – người có giấy chứng nhận được pháp luật thừa nhận là chủ sở hữu tác phẩm nhiếp ảnh. Trong trường hợp có tranh chấp phát sinh, tổ chức đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký không có nghĩa vụ chứng minh tác phẩm nhiếp ảnh đó thuộc về mình.

Trên đây là bài viết “Quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng

Thời hạn bảo hộ quyền liên quan

Mặc dù việc bảo hộ quyền liên quan luôn gắn liền với việc bảo hộ quyền tác giả, tuy nhiên thời hạn bảo hộ quyền liên quan và quyền tác giả lại có sự khác biệt. Thời hạn bảo hộ quyền liên quan không được phân tách thành thời hạn bảo hộ quyền nhân thân và quyền tài sản riêng như thời hạn bảo hộ quyền tác giả. Vậy, thời hạn bảo hộ quyền liên quan được quy định như thế nào, chúng tôi xin được làm rõ trong bài viết này.

1. Thời hạn bảo hộ quyền liên quan theo một số điều ước quốc tế

Vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan nói riêng là những vấn đề quan trọng trong thế giới hiện đại ngày nay. Trong suốt thế kỷ 20 và 21, các quốc gia đã dần dần hình thành nên những nhận thức chung, thỏa thuận chung về việc bảo hộ này bằng cách ký kết các công ước, hiệp định và thành lập tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPO. Riêng với vấn đề bảo hộ quyền liên quan, sự tồn tại của các công ước, hiệp định như Công ước Rome năm 1961 về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát sóng; Công ước Geneva năm 1971 về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm chống việc sao chép không được phép bản ghi âm của họ; Hiệp định TRIPS 1994 về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ; Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm (WPPT) năm 1996 đã trở thành những khuôn mẫu quan trọng cho các quốc gia xây dựng pháp luật về bảo hộ quyền liên quan, trong đó có Việt Nam.

Chế định thời hạn bảo hộ quyền liên quan đã được nêu rõ trong những công ước, hiệp định nêu trên. Thời hạn bảo hộ quyền liên quan được quy định trong các điều ước không giống nhau và theo thời gian, thời hạn bảo hộ quyền tác giả quy định trong các điều ước trên có sự thay đổi.

Theo Điều 14 của Công ước Rome năm 1961 về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát sóng, thời hạn bảo hộ quyền liên quan phải kéo dài ít nhất cho đến khi hết thời hạn là 20 năm kể từ khi kết thúc của năm mà:

  • Việc định hình bản ghi âm được thực hiện – đối với các bản ghi âm và đối với các buổi biểu diễn được định hình trong đó.
  •  Buổi biểu diễn được tiến hành – đối với các buổi biểu diễn không được định hình trong các bản ghi âm.
  • Buổi phát sóng được thực hiện- đối với các buổi phát sóng.

Bên cạnh đó, theo Công ước Geneva về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm chống việc sao chép không được phép bản ghi âm của họ ký kết năm 1971 quy định về thời hạn bảo hộ tại Điều 4, cụ thể như sau: “Thời hạn bảo hộ sẽ tuỳ thuộc vào pháp luật quốc gia của mỗi quốc gia ký kết. Tuy nhiên, nếu luật pháp quốc gia quy định một thời hạn cụ thể cho sự bảo hộ này, thì thời hạn đó sẽ không ít hơn hai mươi năm kể từ khi kết thúc của năm mà các âm thanh thể hiện trong bản ghi âm được ghi lần đầu hoặc của năm mà bản ghi âm được công bố lần đầu.

Mặt khác, Khoản 5 Điều 14 Hiệp định TRIPS 1994 về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ quy định về thời hạn bảo hộ đối với những người biểu diễn và sản xuất bản ghi âm phải kéo dài ít nhất là đến hết thời hạn 50 năm tính từ khi kết thúc năm dương lịch mà việc ghi âm hoặc buổi biểu diễn được tiến hành; thời hạn bảo hộ đối với tổ chức phát thanh, truyền hình phải kéo dài ít nhất là 20 năm tính từ khi kết thúc năm dương lịch mà chương trình phát thanh truyền hình được thực hiện.

Ngoài ra, Điều 17 của Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm (WPPT) năm 1996 cũng ghi nhận:

  • Thời hạn bảo hộ dành cho người biểu diễn phải kéo dài ít nhất cho đến khi kết thúc thời hạn 50 năm, tính từ khi kết thúc năm mà buổi biểu diễn đã được định hình trong bản ghi âm;
  • Thời hạn bảo hộ dành cho nhà sản xuất bản ghi âm phải kéo dài ít nhất cho đến khi kết thúc thời hạn 50 năm, tính từ khi kết thúc năm mà bản ghi âm đã được công bố, hoặc nếu không có việc công bố này trong vòng 50 năm kể từ khi định hình bản ghi âm thì thời hạn 50 năm được tính từ khi kết thúc năm mà việc định hình được thực hiện.

Qua những điều khoản trên, có thể thấy rõ sự thay đổi theo hướng tăng thời hạn bảo hộ quyền liên quan theo thời gian với mức tối thiểu là 50 năm đối với Hiệp định TRIPS năm 1994 và Hiệp định WPPT năm 1996. Sự thay đổi này gắn liền với sự phát triển của khoa học công nghệ, khi mà con người tìm ra cách để định hình cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình và chương trình phát sóng trên những vật chất có độ bền chắc, tuổi thọ cao, không dễ hỏng hóc như trước và đi liền với sự phát triển của không gian mạng, nơi con người có thể lưu trữ thông tin một cách không giới hạn.

Hiện nay, pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới cũng đều quy định thời hạn bảo hộ quyền của người biểu diễn ở mức 50 năm. Việt Nam hiện đang là thành viên của cả bốn điều ước quốc tế được phân tích nêu trên, do đó pháp luật Việt Nam quy định về thời hạn bảo hộ quyền liên quan không được mâu thuẫn với quy định của bốn điều ước đó.

2. Thời hạn bảo hộ quyền liên quan theo pháp luật Việt Nam

Tại Việt Nam, thời hạn bảo hộ quyền liên quan được quy định tại Điều 34 Luật Sở hữu trí tuệ như sau:

1. Quyền của người biểu diễn được bảo hộ năm mươi năm tính từ năm tiếp theo năm cuộc biểu diễn được định hình.

2. Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ năm mươi năm tính từ năm tiếp theo năm công bố hoặc năm mươi năm kể từ năm tiếp theo năm bản ghi âm, ghi hình được định hình nếu bản ghi âm, ghi hình chưa được công bố.

3. Quyền của tổ chức phát sóng được bảo hộ năm mươi năm tính từ năm tiếp theo năm chương trình phát sóng được thực hiện.

4. Thời hạn bảo hộ quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ các quyền liên quan.”

Theo quy định trên, có thể thấy rằng thời hạn bảo hộ của quyền liên quan được quy định không phân biệt giữa quyền nhân thân và quyền tài sản của các chủ thể nắm giữ quyền liên quan. Thời hạn bảo hộ quyền liên quan cũng không kéo dài như quyền tác giả mà được giới hạn trong vòng 50 năm tính từ năm tiếp theo của năm buổi biểu diễn được định hình, bản ghi âm, ghi hình được định hình/công bố hoặc năm chương trình phát sóng được thực hiện. Thời gian kết thúc thời hạn bảo hộ đã được quy định  Quy định nêu trên hoàn toàn phù hợp, thống nhất với quy định tại các Điều ước quốc tế như Công ước Rome, Công ước Geneva, Hiệp định TRIPS và Hiệp ước WPPT mà Việt Nam đã tham gia.

Trên đây là bài viết Thời hạn bảo hộ quyền liên quan”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng.