Sorting by

×
Skip to main content

Tác giả: Biên Tập Viên

BIỂU TƯỢNG © ĐƯỢC HIỂU NHƯ THẾ NÀO?

Biểu tượng © là biểu tượng quen thuộc, không xa lạ với những người sử dụng internet hàng ngày, thường được sử dụng trong thông báo bản quyền (“copyright notice”) ở cuối mỗi trang web. Biểu tượng © là ký hiệu của thuật ngữ bản quyền – “copyright”, thường được gắn với một đối tượng cụ thể (ví dụ như sách, trang web,…) với ý nghĩa tuyên bố đối tượng đó đã được bảo hộ bản quyền. Để tìm hiểu thêm thông tin về biểu tượng © và cách sử dụng của nó, Bản quyền Việt Nam xin được nêu rõ trong bài viết dưới đây.

1. Nguồn gốc của biểu tượng ©

Biểu tượng © được xuất hiện lần đầu trong Phần 18 của Đạo luật Bản quyền của Hoa Kỳ năm 1909. Ban đầu, biểu tượng này chỉ được sử dụng cho các tác phẩm hội họa, đồ họa và điêu khắc. 

Trước khi biểu tượng © ra đời, con người đã có ý thức về vấn đề bảo vệ bản quyền. Người ta đã sử dụng những biểu tượng và những dấu hiệu khác để khẳng định bản quyền hay tính chính thức của một tác phẩm. Những biểu tượng đó được sử dụng như một công cụ để hạn chế những gì nhà in có thể xuất bản, giống như một dạng con dấu, cho biết rằng giấy phép đã được cấp và sách được in là chính hãng. Người ta đã tìm thấy các ký hiệu biểu thị tình trạng bản quyền của tác phẩm trong niên giám Scotland những năm 1670, những cuốn sách có chứa một bản in của huy hiệu địa phương để xác nhận tính chính thức của sách.  Đồng thời, người ta cũng sử dụng thông báo bản quyền để xác thực tác phẩm là chính gốc. Tuy nhiên, đến tận năm 1802, việc thông báo bản quyền mới trở thành quy định bắt buộc theo Đạo luật Bản quyền 1802 tại Hoa Kỳ. Đạo luật này yêu cầu các nhà xuất bản, nếu họ muốn được bảo vệ bản quyền, phải đưa thông báo bản quyền vào sách của họ, phải xuất bản thông báo bản quyền trên trang tiêu đề hoặc trang phía sau nó. Ban đầu, thông báo bản quyền này được quy định khá dài, cụ thể:

Entered according to act of Congress, the _____ day of _____ 18 _____ (here insert the date when the same was deposited in the office) by A. B. of the State of _____ (here insert the author’s or proprietor’s name and the State in which he resides). ”

(Tạm dịch: Được thông qua theo đạo luật của Quốc hội, ngày _____ của _____ 18 _____ (ở đây ghi ngày mà tài liệu tương tự được ký gửi tại văn phòng) bởi A. B của Bang _____ (ở đây ghi tên tác giả hoặc chủ sở hữu và Bang nơi anh ta cư trú).

Sau đó, Đạo luật Bản quyền đã được sửa đổi vào năm 1874 để cho phép sử dụng một thông báo rút ngắn hơn: “Copyright, 18____ , by A. B.” Tuy nhiên, việc sử dụng thông báo trên vẫn gây ra sự phiền toái cho các các tác phẩm hội họa, bản đồ, đồ họa và điêu khắc, do đó, đến năm 1909, biểu tượng © đã được sử dụng giúp dễ dàng thể hiện rằng tác phẩm đã được đăng ký bản quyền và ban đầu nó chỉ áp dụng cho các tác phẩm hội họa, đồ họa và điêu khắc. Tới năm 1954, pháp luật Hoa Kỳ đã sửa đổi và cho phép biểu tượng ©  cho bất kỳ tác phẩm nào được xuất bản và đăng ký bản quyền.

Biểu tượng © được sử dụng phổ biến trên thế giới thông qua quy định của Công ước Bản quyền Toàn cầu (Universal Copyright Convention- UCC). Từ những năm 50 của thế kỷ XX, Hoa Kỳ đứng trước những ảnh hưởng từ việc bản quyền trở thành vấn đề quốc tế. Tuy nhiên, Hoa Kỳ không phải là thành viên của công ước Bern, hiệp ước bản quyền hàng đầu tại thời điểm đó. Công ước Berne yêu cầu tất cả các quốc gia loại bỏ các thủ tục để được bảo hộ bản quyền, bao gồm cả thông báo và đăng ký, nhưng Hoa Kỳ tại thời điểm đó đã không sẵn sàng để thực hiện điều này. Công ước Bản quyền Toàn cầu được hình thành vào năm 1952 và có hiệu lực vào năm 1955 vẫn giữ nguyên quan điểm yêu cầu các thủ tục bản quyền (Khoản 1 Điều 3 của Công ước), bao gồm thông báo bản quyền mang biểu tượng © kèm theo tên của chủ sở hữu bản quyền và năm xuất bản lần đầu tiên và Hoa Kỳ đã tham gia vào công ước đó. 

2. Biểu tượng © ngày nay được sử dụng như thế nào?

Hiện nay, việc sử dụng biểu tượng © không phải là hầu như không phải là việc làm bắt buộc, trừ những quốc gia có quy định cụ thể khác. Tuy nhiên, người ta vẫn khuyến khích sử dụng biểu tượng © và thông báo bản quyền nhằm cung cấp thêm bằng chứng trong một vụ tranh chấp  rằng người bị cáo buộc vi phạm lẽ ra phải biết rằng tác phẩm có bản quyền. Bên cạnh đó, do Hoa Kỳ đã gia nhập Công ước Bern vào năm 1989, các tác phẩm được xuất bản tại Hoa Kỳ trước ngày 1 tháng 3 năm 1989 vẫn phải tuân theo thông báo bản quyền là bắt buộc. 

Tại Việt Nam, việc sử dụng biểu tượng © và thông báo bản quyền là không bắt buộc. Việt Nam là một thành viên của công ước Bern và pháp luật Việt Nam cũng không có quy định về việc sử dụng bất kì một biểu tượng hay thông báo bản quyền nào như một điều kiện để tác phẩm được bảo hộ.

Trên đây là bài viết “Biểu tượng © được hiểu như thế nào?” của Bản quyền Việt Nam. Mong bài viết đem lại thông tin hữu ích cho quý bạn đọc.

Trân trọng.

Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao

Các tác phẩm đã công bố là một thành phần của quyền tác giả được bảo hộ. Những vấn đề được bảo hộ xoay quanh đối tượng này có thể bao gồm cả việc sử dụng hay trả tiền để sử dụng những tác phẩm đó. Qua bài viết dưới đây, chúng tôi sẽ làm rõ các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền.

I. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền

1. Các trường hợp phải trả tiền bản quyền dù sử dụng không cần xin phép:

Tại Điều 26 Luật Sở hữu trí tuệ quy định các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, nhưng phải trả tiền bản quyền, phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm bao gồm:

  • Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố, tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép định hình trên bản ghi âm, ghi hình công bố nhằm mục đích thương mại để phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng. Mức tiền bản quyền và phương thức thanh toán do các bên thỏa thuận; trường hợp không đạt được thỏa thuận thì thực hiện theo quy định của Chính phủ.
  • Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố, tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép định hình trên bản ghi âm, ghi hình công bố nhằm mục đích thương mại để phát sóng không có tài trợ, quảng cáo hoặc không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng theo quy định của Chính phủ;
  • Trường hợp tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép định hình trên bản ghi âm, ghi hình công bố nhằm mục đích thương mại thì tổ chức, cá nhân sử dụng bản ghi âm, ghi hình này trong hoạt động kinh doanh, thương mại không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền cho chủ sở hữu quyền tác giả của tác phẩm đó theo thỏa thuận kể từ khi sử dụng; trường hợp không đạt được thỏa thuận thì thực hiện theo quy định của Chính phủ. Chính phủ quy định chi tiết các hoạt động kinh doanh, thương mại quy định tại điểm này.

Chẳng hạn, các vũ trường, nhà hàng, khách sạn, các trang web nhạc,… khi sử dụng tác phẩm đã công bố (cho dù có tài trợ, quảng cáo hoặc thu phí sử dụng hay không) thì không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng.

Đối với các bài hát, tác phẩm âm nhạc nước ngoài; Các tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, các tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan đang nắm giữ quyền sử dụng tác phẩm hoặc được tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả ủy quyền sẽ đại diện cho chủ sở hữu để thu phí bản quyền từ những người sử dụng. Các tổ chức này sẽ đại diện cho chủ sở hữu để thu phí của các nhà hàng, vũ trường…

Việc trả tiền cho bản quyền tác giả chính là để bảo vệ quyền lợi ích của chủ sở hữu. Đặc biệt các chủ thể như nhà hàng, vũ trường, quán karaoke là các chủ thể kinh doanh từ việc sử dụng các tác phẩm âm nhạc nên việc trả phí bản quyền là hợp lý.

2. Điều kiện sử dụng tác phẩm:

  • Tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm liệt kê như trên không được mâu thuẫn với việc khai thác bình thường tác phẩm, không làm hại đến một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải ghi thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.
  • Trong trường hợp việc sử dụng gây hại đến lợi ích của chủ sở hữu quyền tác giả có thể sẽ phải chịu các chế tài của pháp luật như bồi thường thiệt hại và xử phạt hành chính.

Trường hợp ngoại lệ: Việc sử dụng tác phẩm trong các trường hợp trên không áp dụng đối với tác phẩm điện ảnh.

II.   Dịch vụ pháp lý hỗ trợ bản quyền của CTCP Phát triển bản quyền Việt Nam

Với đội ngũ chuyên gia pháp lý nhiều kinh nghiệm, chúng tôi tự tin trong việc hỗ trợ Khách hàng trong lĩnh vực bản quyền. Với phương châm luôn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Khách hàng, công ty cố gắng và đảm bảo hỗ trợ Khách hàng và triển khai công việc một cách nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả nhất, thường xuyên báo cáo tiến trình vụ việc cũng như đưa ra kế hoạch hành động tiếp theo để Khách hàng có thể dễ dàng theo dõi và đánh giá kết quả công việc. Khách hàng hoàn toàn có thể tin tưởng và an tâm khi sử dụng dịch vụ của chúng tôi.

Trên đây là bài viết “Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao”. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng!

Cấp lại, cấp đổi Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan

 

Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan được xem là những loại giấy tờ thể hiện quyền sở hữu tác phẩm, quyền liên quan của tác giả, chủ sở hữu. Khi hai loại giấy này bị mất, hư hỏng hay có thông tin cần thay đổi thì chủ sở hữu, tác giả cần thực hiện thủ tục cấp lại hoặc cấp đổi tùy từng trường hợp. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ tập trung làm rõ những quy định pháp luật Việt Nam liên quan đến việc cấp lại, cấp đổi Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan.

I. Thẩm quyền, các trường hợp được cấp lại, cấp đổi Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan

1.1. Thẩm quyền cấp lại, cấp đổi Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan

Theo quy định tại Điều 35 Nghị định 22/2018/NĐ-CP, Cục Bản quyền tác giả là cơ quan có thẩm quyền cấp lại, cấp đổi Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan.

1.2. Các trường hợp được cấp lại, cấp đổi Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan

Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan được cấp lại trong trường hợp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan bị mất hoặc rách nát.

Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan được cấp đổi trong trường hợp thay đổi chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan hoặc thay đổi thông tin về tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan, tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng.

II. Hồ sơ cấp lại, cấp đổi Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan

2.1. Hồ sơ cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan

Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan có nhu cầu cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan nộp những tài liệu sau:

  • 02 bản sao tác phẩm hoặc 02 bản sao cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng.

2.2. Hồ sơ cấp đổi Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan

Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan có nhu cầu cấp đổi Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan nộp những tài liệu sau:

  • Tờ khai đăng ký quyền tác giả hoặc Tờ khai đăng ký quyền liên quan (theo mẫu);
  • 02 bản sao tác phẩm hoặc 02 bản sao cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng;
  • Tài liệu chứng minh sự thay đổi;
  • Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả hoặc Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan đã cấp.

III. Thời hạn cấp lại, cấp đổi Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan

Đối với trường hợp cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan: Trong thời hạn bảy (07) ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ, Cục Bản quyền tác giả có trách nhiệm cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan.

Đối với trường hợp cấp đổi Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan: Trong thời hạn mười hai (12) ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ, Cục Bản quyền tác giả có trách nhiệm cấp đổi Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan.

Trường hợp từ chối cấp lại, cấp đổi Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan, Cục Bản quyền tác giả phải thông báo bằng văn bản cho người nộp đơn.

IV. Dịch vụ pháp lý hỗ trợ bảo vệ quyền tác giả của Công ty CP Phát triển bản quyền Việt Nam

Với đội ngũ chuyên gia pháp lý nhiều kinh nghiệm, VCD tự tin trong việc hỗ trợ Khách hàng xử lý những vụ việc liên quan đến bảo vệ quyền tác giả. Với phương châm luôn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Khách hàng, công ty cố gắng và đảm bảo hỗ trợ Khách hàng và triển khai công việc một cách nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả nhất, thường xuyên báo cáo tiến trình vụ việc cũng như đưa ra kế hoạch hành động tiếp theo để Khách hàng có thể dễ dàng theo dõi và đánh giá kết quả công việc. Khách hàng hoàn toàn có thể tin tưởng và an tâm khi sử dụng dịch vụ pháp lý hỗ trợ bảo vệ quyền tác giả của chúng tôi.

Trên đây là bài viết Cấp lại, cấp đổi Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan

Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan, pháp luật sở hữu trí tuệ đã quy định về việc Hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ tập trung làm rõ những quy định pháp luật liên quan đến việc hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan để từ đó Quý độc giả có căn cứ thực hiện trên thực tế.

1. Thẩm quyền hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan

Theo quy định tại Điều 39 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP, Cục Bản quyền tác giả là cơ quan có thẩm quyền hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan. Do vậy, khi phát sinh yêu cầu hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan, cá nhân, tổ chức cần nộp hồ sơ, tài liệu đến Cục Bản quyền tác giả.

2. Các trường hợp hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan

Thứ nhất, Cục bản quyền tác giả hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan trong trường hợp sau: Người được cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan không phải là tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan hoặc tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng đã đăng ký không thuộc đối tượng bảo hộ.

Thứ hai, tổ chức, cá nhân phát hiện việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan trái với quy định của Luật Sở hữu trí tuệ, có quyền yêu cầu Cục bản quyền tác giả hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan.

Thứ ba, trường hợp tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng đã đăng ký không thuộc đối tượng bảo hộ theo quy định của pháp luật.

3. Hồ sơ yêu cầu hủy bỏ Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan

Để hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan, tùy từng trường hợp cụ thể, tổ chức, cá nhân cần nộp những tài liệu sau:

  • Đơn đề nghị hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả hoặc Đơn đề nghị hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan;
  • Tài liệu chứng minh Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan được cấp trái với quy định của Luật Sở hữu trí tuệ (nếu có);
  • Tài liệu chứng minh người được cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan không phải là tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan hoặc tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng đã đăng ký không thuộc đối tượng bảo hộ (nếu có);
  • 02 bản sao tác phẩm hoặc 02 bản sao cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng (nếu có);
  • Bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ về việc hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan (nếu có);
  • Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả hoặc Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan đã cấp (nếu có).

Phụ thuộc vào lý do yêu cầu hủy bỏ Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan mà cá nhân, tổ chức cần cung cấp cho Cục bản quyền tác giả những tài liệu phù hợp. Việc cá nhân, tổ chức cung cấp được đầy đủ tài liệu chứng minh cho yêu cầu hủy bỏ sẽ hỗ trợ Cục bản quyền tác giả đẩy nhanh tiến độ thực hiện việc hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan.

4. Thời hạn thực hiện việc hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan

Trong thời hạn mười lăm (15) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được một trong các văn bản sau đây, Cục Bản quyền tác giả phải ban hành quyết định hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan:

  • Bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ về việc hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan;
  • Văn bản của tổ chức, cá nhân đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan đề nghị hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan đã được cấp.

5. Dịch vụ pháp lý hỗ trợ bảo vệ quyền tác giả của Công ty CP Phát triển bản quyền Việt Nam

Với đội ngũ chuyên gia pháp lý nhiều kinh nghiệm, VCD tự tin trong việc hỗ trợ Khách hàng xử lý những vụ việc liên quan đến bảo vệ quyền tác giả. Với phương châm luôn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Khách hàng, công ty cố gắng và đảm bảo hỗ trợ Khách hàng và triển khai công việc một cách nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả nhất, thường xuyên báo cáo tiến trình vụ việc cũng như đưa ra kế hoạch hành động tiếp theo để Khách hàng có thể dễ dàng theo dõi và đánh giá kết quả công việc. Khách hàng hoàn toàn có thể tin tưởng và an tâm khi sử dụng dịch vụ pháp lý hỗ trợ bảo vệ quyền tác giả của chúng tôi.

Trên đây là bài viết Hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan”. Chúng tôi hy vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Tác phẩm phái sinh là gì? Điều kiện để tác phẩm phái sinh được bảo hộ quyền tác giả?

Không thể phủ nhận rằng những tác phẩm văn học, thơ ca, âm nhạc, điện ảnh,…kinh điển cũng là một nguồn cảm hứng cho các tác giả sáng tác, thực hiện những tác phẩm phái sinh. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích khái niệm tác phẩm phái sinh và điều kiện để tác phẩm phái sinh được bảo hộ quyền tác giả.

1. Tác phẩm phái sinh là gì?

Theo khoản 8 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, tác phẩm phái sinh được quy định là tác phẩm được sáng tạo trên cơ sở một hoặc nhiều tác phẩm đã có thông qua việc dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, phóng tác, biên soạn, chú giải, tuyển chọn, cải biên, chuyển thể nhạc và các chuyển thể khác.

Căn cứ theo quy định nêu trên, các tác phẩm phái sinh từ một tác phẩm gốc bao gồm:

  • Tác phẩm dịch ra ngôn ngữ khác của tác phẩm gốc: là tác phẩm được dịch sang ngôn ngữ khác một cách sát nghĩa, không diễn đạt sai nội dung dựa trên nội dung của tác phẩm gốc.
  • Tác phẩm phóng tác: là tác phẩm phỏng theo tác phẩm gốc, nhưng có sự sáng tạo về nội dung, tư tưởng… Tác phẩm phóng tác thường mang sắc thái mới, khác biệt so với tác phẩm gốc.
  • Tác phẩm biên soạn: là việc tổng hợp thông tin, thu thập và chọn lọc các tài liệu tham khảo để viết lại thành một tác phẩm mới có sự trích dẫn những nguồn thông tin đã tham khảo.
  • Bản chú giải: là tác phẩm thể hiện quan điểm, lời bình của người soạn bản chú giải đó, giải thích ý nghĩa để làm rõ hơn nội dung trong tác phẩm gốc.
  • Tác phẩm tuyển chọn: được hiểu là một tập hợp các tác phẩm được lựa chọn bởi người biên soạn.
  • Tác phẩm cải biên: là tác phẩm được sáng tạo ra trên cơ sở tác phẩm gốc bằng cách thay đổi hình thức diễn đạt.
  • Tác phẩm chuyển thể: có thể hiểu là tác phẩm dựa trên tác phẩm gốc nhưng không làm thay đổi nội dung của tác phẩm gốc. Hiện nay, hình thức chuyển thể phổ biến là việc chuyển thể một tác phẩm văn học, câu chuyện… thành tác phẩm điện ảnh, phim truyền hình…

2. Điều kiện để tác phẩm phái sinh được bảo hộ quyền tác giả?

Tác phẩm phái sinh được bảo hộ quyền tác giả khi đáp ứng 04 điều kiện sau:

  • Không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm gốc:
    • Theo khoản 2 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh.
    • Các tác phẩm dùng để làm tác phẩm phái sinh bao gồm các phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ.
  • Phải do tác giả làm tác phẩm phái sinh trực tiếp sáng tạo: Khoản 3 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định tác phẩm phái sinh được bảo hộ phải do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác.
  • Được sự cho phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả tác phẩm gốc: Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định tác phẩm phái sinh phải được sự cho phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả tác phẩm gốc. Trong trường hợp không có sự đồng ý của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả sẽ bị xem là hành vi xâm phạm quyền tác giả (Trừ khi tác phẩm phái sinh thuộc các trường hợp tại Điều 25 và Điều 26 Luật Sở hữu trí tuệ).
  • Phải có dấu ấn riêng của tác giả tác phẩm phái sinh: Tác phẩm phái sinh là những tác phẩm được sáng tạo dựa trên tác phẩm gốc. Nên để tác phẩm phái sinh được bảo hộ thì phải có tính sách tạo, mới mẻ và mang dấu ấn của tác giả sáng tạo ra tác phẩm phái sinh đó.

 3. Dịch vụ pháp lý hỗ trợ bản quyền của Công ty CP Phát triển bản quyền Việt Nam

Với đội ngũ chuyên gia pháp lý nhiều kinh nghiệm, chúng tôi tự tin trong việc hỗ trợ Khách hàng trong lĩnh vực bản quyền. Với phương châm luôn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Khách hàng, công ty cố gắng và đảm bảo hỗ trợ Khách hàng và triển khai công việc một cách nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả nhất, thường xuyên báo cáo tiến trình vụ việc cũng như đưa ra kế hoạch hành động tiếp theo để Khách hàng có thể dễ dàng theo dõi và đánh giá kết quả công việc. Khách hàng hoàn toàn có thể tin tưởng và an tâm khi sử dụng dịch vụ pháp lý của chúng tôi.

Trên đây là bài viết “Tác phẩm phái sinh là gì? Điều kiện để tác phẩm phái sinh được bảo hộ quyền tác giả?”. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng!

Để biểu diễn các tác phẩm nghệ thuật, người biểu diễn có phải xin phép tác giả không?

Nghệ thuật là một phần không thể thiếu trong đời sống của con người. Các tác phẩm nghệ thuật âm nhạc và sân khấu thường được công chúng biết tới thông qua sự truyền tải của những người biểu diễn. Tuy nhiên, người biểu diễn không phải là người viết nên nội dung của tác phẩm mà chỉ là người thể hiện tác phẩm bằng những loại hình sân khấu khác nhau, bằng kỹ thuật, sự sáng tạo của cá nhân người biểu diễn đó. Nội dung của những buổi biểu diễn đó từ đâu mà có, không thể không nhắc đến công lao của các tác giả, người đã dành thời gian, công sức để sáng tạo nên những tác phẩm. Vậy, mối liên quan giữa người biểu diễn và tác giả như thế nào, trước khi biểu diễn một tác phẩm, người biểu diễn có cần phải xin phép tác giả hay không? Bài viết sau đây chúng tôi xin trình bày chi tiết về nội dung này.

1. Khái niệm về biểu diễn nghệ thuật và người biểu diễn

Các chương trình biểu diễn nghệ thuật từ những loại hình nghệ thuật truyền thống như chèo, tuồng, cải lương,…cho tới hiện đại như liveshow âm nhạc, các chương trình tạp kỹ,…đều không xa lạ với chúng ta hiện nay. Dưới góc độ luật pháp, theo Khoản 1, Khoản 2 Điều 2 Nghị định 79/2012/NĐ -CP, biểu diễn nghệ thuật được hiểu như sau:

Biểu diễn nghệ thuật là trình diễn chương trình, tiết mục, vở diễn trực tiếp trước công chúng của người biểu diễn;” và

Loại hình nghệ thuật biểu diễn bao gồm: Tuồng, chèo, cải lương, xiếc, múa rối, bài chòi, kịch nói, kịch dân ca, kịch câm, nhạc kịch, giao hưởng, ca, múa, nhạc, ngâm thơ, tấu hài, tạp kỹ và các loại hình nghệ thuật biểu diễn khác.”

Về người biểu diễn, người biểu diễn là tên gọi chung của những diễn viên, ca sĩ, nhạc công, vũ công và những người khác trình bày tác phẩm văn học, nghệ thuật (Theo Khoản 1 Điều 16 Luật Sở hữu trí tuệ). Người biểu diễn là một trong những đối tượng được bảo hộ quyền liên quan theo quy định của pháp luật.

2. Để biểu diễn các tác phẩm nghệ thuật, người biểu diễn có phải xin phép tác giả không?

Quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng là một trong những quyền tài sản của tác giả, được quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 20 Luật sở hữu trí tuệ. Theo đó, tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả là người nắm giữ quyền “biểu diễn tác phẩm trước công chúng trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các bản ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào tại địa điểm mà công chúng có thể tiếp cận được nhưng công chúng không thể tự do lựa chọn thời gian và từng phần tác phẩm”.

Do tác giả là người nắm giữ quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng, những cá nhân, tổ chức muốn thực hiện biểu diễn tác phẩm phải xin phép tác giả và trả tiền bản quyền cho tác giả để được sử dụng quyền biểu diễn. Việc biểu diễn tác phẩm mà không xin phép tác giả, không trả tiền bản quyền cho tác giả là hành xâm vi phạm quyền tác giả theo Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ.

Tuy nhiên, có một trường hợp ngoại lệ mà người biểu diễn không cần phải xin phép cũng như không phải trả tiền bản quyền cho tác giả. Tại Điểm g Khoản 1 Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ quy định về các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả quy định “Biểu diễn tác phẩm sân khấu, âm nhạc, múa và các loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hóa, hoạt động tuyên truyền cổ động không nhằm mục đích thương mại” đối với tác phẩm đã công bố thì không phải xin phép, không phải trả tiền bản quyền nhưng phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xử của tác phẩm. Ví dụ, việc biểu diễn tác phẩm tại buổi sinh hoạt tập thể tại trường học, khu dân cư, công ty không nhằm mục đích thương mại thì được phép biểu diễn mà không cần phải xin phép nhưng phải thông tin rõ ràng về tên tác giả và nguồn gốc tác phẩm.

Đối với hành vi xâm phạm quyền cho phép biểu diễn tác phẩm trước công chúng, Điều 13 Nghị định 131/2013/NĐ-CP đã quy định chế tài xử phạt hành chính như sau:

Điều 13. Hành vi xâm phạm quyền cho phép biểu diễn tác phẩm trước công chúng

1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi biểu diễn trực tiếp tác phẩm trước công chúng mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả theo quy định.

2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với hành vi biểu diễn tác phẩm thông qua các chương trình ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả theo quy định.

3. Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc dỡ bỏ bản sao bản ghi âm, ghi hình vi phạm đối với hành vi quy định tại Khoản 2 Điều này.”

Trên đây là mức phạt hành chính đối với cá nhân, nếu tổ chức có hành vi vi phạm tương tự thì tổ chức vi phạm sẽ bị phạt gấp đôi cá nhân.

Trên đây là bài viết “Để biểu diễn các tác phẩm nghệ thuật, người biểu diễn có phải xin phép tác giả không?”. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc

Âm nhạc phát triển theo cùng với chiều dài lịch sử của xã hội, đây là công cụ thể hiện chính xác những mong muốn, nhu cầu, tình cảm của con người. Theo pháp luật quy định thì tác phẩm âm nhạc cũng được bảo hộ quyền tác giả, nhưng các quy định về bảo hộ cụ thể như nào mời bạn đọc theo dõi bài viết dưới đây của VCD.

1. Hiểu tác phẩm âm nhạc là gì?

Tác phẩm âm nhạc là một trong những đối tượng được bảo hộ quyền tác giả và được quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ.

Định nghĩa tác phẩm âm nhạc được quy định tại Điều 10 Nghị định số 22/2018 ngày 23 tháng 2 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật SHTT 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Cụ thể: “Tác phẩm âm nhạc quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 14 của Luật sở hữu trí tuệ là tác phẩm được thể hiện dưới dạng nhạc nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác hoặc được định hình trên bản ghi âm, ghi hình có hoặc không có lời, không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn”.

Tuy nhiên, theo quy định tại Khoản 1 Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ thì quyền tác giả sẽ được bảo hộ kể từ khi mà tác phẩm được sáng tạo ra và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định. Nghĩa là khi nào tác phẩm được tạo ra và con người có thể xác định được sự tồn tại của nó thì lúc này tác phẩm đó sẽ được bảo hộ dưới dạng quyền tác giả. Do đó, đối với tác phẩm âm nhạc cũng vậy, khi nhạc sĩ chỉ mới sáng tạo ra giai điệu trong suy nghĩ của nhạc sĩ lúc này tác phẩm âm nhạc này chưa được bảo hộ. Chỉ khi nào, người nhạc sĩ tiến hành việc thể hiện tác phẩm đó dưới dạng hình thức vật chất nhất định (viết giai điệu, nốt nhạc vào giấy, thể hiện trên máy tính,…) thì quyền tác giả của tác phẩm âm nhạc đó sẽ được phát sinh.

2. Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc

Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc có thể hiểu là việc Nhà nước ban hành các quy phạm pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho việc xác lập, công nhận và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho các tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm âm nhạc do họ sáng tạo ra.

Trong đó, bao gồm các nội dung về xác lập, công nhân quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc, quản lý, sử dụng, khai thác quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc và bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc chống lại các hành vi xâm phạm.

3. Điều kiện để tác phẩm âm nhạc được bảo hộ quyền tác giả

3.1. Điều kiện về tác phẩm âm nhạc để được bảo hộ quyền tác giả

  • Phải là loại hình tác phẩm được định hình dưới một hình thức vật chất nhất định

Nếu giai điệu chỉ hình thành trong tâm trí người nhạc sĩ thì đó chưa phải là tác phẩm âm nhạc được bảo hộ, chỉ khi bài hát đó được thể hiện dưới dạng nốt nhạc, chữ viết trên giấy, hoặc trên máy tính, khi đó tác phẩm âm nhạc mới có điều kiện được bảo hộ quyền tác giả.

  • Nội dung không trái đạo đức xã hội, trật tự công cộng, không gây hại cho quốc phòng, an ninh

Trong nội dung chính sách của Nhà nước về sở hữu trí tuệ theo quy định tại Khoản 1 Điều 8 Luật Sở hữu trí tuệ có quy định Công nhận và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân trên cơ sở bảo đảm hài hoà lợi ích của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ với lợi ích công cộng; không bảo hộ các đối tượng sở hữu trí tuệ trái với đạo đức xã hội, trật tự công cộng, có hại cho quốc phòng, an ninh”.

3.2. Điều kiện của tác giả có tác phẩm âm nhạc được bảo hộ tại Việt Nam

  • Tác phẩm của tác giả là công dân Việt Nam;
  • Tác phẩm thuộc sở hữu của công dân, pháp nhân, tổ chức Việt Nam;
  • Tác phẩm của người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài được sáng tạo và thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định tại Việt Nam;
  • Tác phẩm của người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài lần đầu tiên được công bố, phổ biến tại Việt Nam;
  • Tác phẩm của người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài được bảo hộ tại Việt Nam theo điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.

Vậy, khi đáp ứng được các điều kiện trên, thì tại thời điểm tác phẩm âm nhạc được thể hiện dưới dạng hình thức vật chất nhất định thì khi đó quyền tác giả của tác phẩm âm nhạc được phát sinh.

Trên thực tế, có không hiếm những trường hợp đạo nhạc hoặc sao chép lời bài hát nhưng chính tác giả cũng không xử lý được vì họ không chứng minh được quyền sở hữu của mình đối với tác phẩm âm nhạc này. Vì lý do đó, đăng ký bảo hộ quyền tác giả là một trong những cách tốt nhất để bảo vệ tác phẩm, là bằng chứng vững chắc để xử lý các hành vi xâm phạm, đồng thời tạo lợi thế cho chủ sở hữu trong việc truy thu tiền bản quyền đối với các tổ chức, cá nhân sử dụng trái phép tác phẩm âm nhạc của tác giả.

Trên đây là bài viết Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc”. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Tác phẩm có tên trùng với tác phẩm khác có được bảo hộ không ?

Trong thực tế, không khó để bắt gặp những sự trùng hợp trong tên gọi của các tác phẩm khác nhau, ví dụ như hai bài thơ cùng tên là “Đất nước” của tác giả Nguyễn Khoa Điềm và tác giả Nguyễn Đình Thi; bài hát “Chưa bao giờ” do ca sĩ Thu Phương biểu diễn và một bài hát khác cũng lấy tên “Chưa bao giờ” do ca sĩ Trung Quân biểu diễn; hay vụ việc trùng tên của các cuộc thi sắc đẹp như Hoa hậu Hòa bình Việt Nam giữa công ty Sen Vàng và công ty Minh Khang Việt Nam…Việc đặt trùng tên tác phẩm, dù vô tình hay hữu ý, đều mang lại những ảnh hưởng nhất định tới danh tiếng của tác giả và tác phẩm. Đặt dưới góc độ pháp luật về Sở hữu trí tuệ, liệu những tác phẩm có tên trùng với tác phẩm khác có được bảo hộ quyền tác giả không, hay nói cách khác, việc trùng tên có được coi là xâm phạm quyền tác giả hay không, chúng tôi xin được giải thích trong bài viết này.

1. Quy định của pháp luật Việt Nam dưới góc độ quyền tác giả về bảo hộ tên tác phẩm

Theo Điều 19 Khoản 1 Luật Sở hữu trí tuệ, tác giả có quyền đặt tên cho tác phẩm và có quyền chuyển quyền sử dụng quyền đặt tên tác phẩm cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao quyền tài sản. Quyền này không áp dụng đối với tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác (Điều 20 Khoản 1 Nghị định 22/2018/NĐ-CP), nghĩa là đối với tác phẩm dịch, tên tác phẩm phải là tên gọi được dịch trực tiếp từ tên tác phẩm tiếng nước ngoài. 

Theo Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ, các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ quyền tác giả bao gồm:

  • Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác;
  • Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác;
  • Tác phẩm báo chí;
  • Tác phẩm âm nhạc;
  • Tác phẩm sân khấu;
  • Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự (sau đây gọi chung là tác phẩm điện ảnh);
  • Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng;
  • Tác phẩm nhiếp ảnh;
  • Tác phẩm kiến trúc;
  • Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình khoa học;
  • Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian;
  •  Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu;

Bên cạnh đó, dựa vào nguồn gốc hình thành tác phẩm, tác phẩm gốc và tác phẩm phái sinh đều được bảo hộ quyền tác giả, với điều kiện việc tạo ra tác phẩm phái sinh không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh.

Như vậy, theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ nêu trên, tên tác phẩm không phải một loại hình riêng biệt được bảo hộ quyền tác giả một cách độc lập. Pháp luật chỉ bảo hộ tổng thể đối với toàn bộ tác phẩm mà không bảo hộ tên tác phẩm riêng. Quyền tác giả không bảo hộ độc quyền đối với toàn bộ hoặc một phần tên gọi của tác phẩm, có nghĩa là khi một tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả thì tên tác phẩm đó không phải chỉ duy nhất tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả được sử dụng. Tên tác phẩm không phải được tác giả, người sở hữu quyền tác giả độc quyền sử dụng mà người khác có thể lấy tên tác phẩm của mình trùng hoặc có những từ ngữ, thành phần tương tự với tên đó.

Về bản chất, quyền tác giả chỉ bảo hộ hình thức thể hiện tác phẩm mà không bảo hộ nội dung ý tưởng sáng tạo được truyền tải trong tác phẩm. Có những trường hợp nhiều tác phẩm có ý tưởng, nội dung tương tự nhau nhưng có cách thể hiện khác nhau thì vẫn được coi là những tác phẩm riêng biệt và được bảo hộ. Trong trường hợp các tác giả tự sáng tác, triển khai các ý tưởng của mình trong cùng một chủ đề thì việc đặt tên trùng nhau là việc hoàn toàn có thể xảy ra và việc này không phải là hành vi xâm phạm quyền tác giả.

2. Giải pháp cho việc trùng tên tác phẩm

Dưới góc độ bảo hộ quyền tác giả, việc trùng tên tác phẩm là tình huống không hiếm gặp và không được coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả. Tuy nhiên, trên thực tế, việc trùng tên tác phẩm trong một số trường hợp cũng tạo ra ảnh hưởng nhất định tới công chúng. Trong những trường hợp mà tên gọi tác phẩm trùng nhau gây ra những ảnh hưởng về lợi ích kinh tế cũng như danh tiếng của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và tác phẩm, tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả cần có những biện pháp thích hợp hơn để bảo vệ quyền lợi của mình.

Việc trùng lặp tên tiếng Việt giữa hai cuộc thi sắc đẹp “Hoa hậu Hòa bình Việt Nam” giữa công ty Sen Vàng (chủ đầu tư của cuộc thi Hoa hậu Hòa bình Việt Nam 2022 -Miss Grand Vietnam 2022) và công ty Minh Khang (chủ đầu tư của cuộc thi Hoa hậu Hòa bình Việt Nam 2022- Miss Peace Vietnam) là một ví dụ cho thấy mặc dù việc trùng tên không phải là xâm phạm quyền tác giả nhưng vẫn dễ gây nhầm lẫn cho công chúng, ảnh hưởng tới danh tiếng và lợi ích kinh tế của chủ sở hữu quyền tác giả. Trong trường hợp này, để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình, bên cạnh việc đăng ký quyền tác giả, các đơn vị tổ chức có thể suy xét thực hiện thủ tục đăng ký bảo hộ nhãn hiệu đối với tên gọi của cuộc thi để nắm giữ quyền độc quyền khai thác, sử dụng tên gọi và ngăn cấm cá nhân, tổ chức khác sử dụng các tên gọi trùng với tên gọi của mình.

Vì vậy, để tránh sự trùng lặp tên gọi gây những phiền toái về sau này, trước khi đăng ký bản quyền, tác giả và chủ sở hữu nên kiểm tra, cân nhắc kỹ về tên gọi của tác phẩm. Trong trường hợp tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả muốn độc quyền sử dụng tên gọi, tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả có thể thực hiện thủ tục đăng ký bảo hộ nhãn hiệu đối với tên gọi đó đồng thời với việc đăng ký quyền tác giả.

Trên đây là bài viết “Tác phẩm có tên trùng với tác phẩm khác có được bảo hộ không?”. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Hiểu như nào là đúng về công bố tác phẩm?

Tác phẩm được xem như những đứa con tinh thần của tác giả, được tác giả bỏ thời gian, công sức trau chuốt để có thể hoàn thiện một cách hoàn mỹ nhất. Chính vì lẽ đó, bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm đóng một vai trò rất quan trọng trong việc công nhận sự sáng tạo của người làm. Tuy nhiên, hiện nay có nhiều đối tượng xấu, bất chấp hành vi phi đạo đức mà ăn cắp tác phẩm của người khác một cách tráo trở khi tác phẩm đó chưa được công bố. Vậy,Hiểu như nào là đúng về công bố tác phẩm, mời bạn đọc cùng VCD theo dõi bài viết dưới đây.

I. Công bố tác phẩm là gì? Thế nào là quyền công bố tác phẩm?

1. Công bố tác phẩm

Những tác phẩm chưa được công bố là những đối tượng dễ bị đánh cắp nhất vì chưa có ai tuyên bố quyền sở hữu của mình đối với các tác phẩm đó. Để dễ dàng chứng mình quyền sở hữu tác phẩm khi có tranh chấp, các tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả nên công bố tác phẩm của mình tới công chúng sớm nhất có thể.

Hiểu theo cách thông thường, công bố tác phẩm là việc đưa ra công khai tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học để cho mọi người biết dưới các hình thức như: xuất bản, trưng bày, biểu diễn, thuyết trình… hoặc đăng kí tác phẩm đó tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

2. Quyền công bố tác phẩm

Công bố tác phẩm là một trong những nội dung quan trọng của quyền tác giả. Tác giả trong trường hợp đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm có toàn quyền công bố, phổ biến hoặc cho người khác công bố, phổ biến tác phẩm của mình. Khi công bố tác phẩm, tác giả còn có quyền lựa chọn hình thức, loại hình nghệ thuật thích hợp với tác phẩm đó.

Quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm là một trong những quyền nhân thân của quyền tác giả được quy định tại Luật sở hữu trí tuệ.

Theo Khoản 2 Điều 20 Nghị định 22/2018/NĐ-CP ngày 23/02/2018 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan quy định:

“Quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm quy định tại khoản 3 Điều 19 của Luật Sở hữu trí tuệ là việc phát hành tác phẩm đến công chúng với số lượng bản sao hợp lý để đáp ứng nhu cầu của công chúng tuỳ theo bản chất của tác phẩm, do tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện hoặc do cá nhân, tổ chức khác thực hiện với sự đồng ý của tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả.

Công bố tác phẩm không bao gồm việc trình diễn một tác phẩm sân khấu, điện ảnh, âm nhạc; đọc trước công chúng một tác phẩm văn học; phát sóng tác phẩm văn học, nghệ thuật; trưng bày tác phẩm tạo hình; xây dựng công trình từ tác phẩm kiến trúc.”

Có thể thấy rằng, dưới góc độ pháp luật về quyền tác giả, thuật ngữ “công bố tác phẩm” được diễn giải khác biệt so với cách hiểu thông thường. Theo đó, công bố tác phẩm được hiểu là việc phát hành bản sao tác phẩm đến công chúng, với số lượng hợp lý để đáp ứng nhu cầu của công chúng tuỳ theo bản chất của tác phẩm, với sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả. Việc công bố tác phẩm phụ thuộc vào ý chí chủ quan của tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả, không phụ thuộc vào thời điểm xuất hiện hay số lần tác phẩm được giới thiệu trước công chúng và có được công chúng biết tới hay chưa.

Như vậy, thời điểm công bố tác phẩm là thời điểm mà tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả phát hành tới công chúng bản sao tác phẩm với số lượng hợp lý để đáp ứng nhu cầu của công chúng.

II. Ý nghĩa của việc công bố tác phẩm

Việc xác định một tác phẩm đã được công bố hay chưa có ý nghĩa rất quan trọng đối với tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả bởi những lý do dưới đây:

Thứ nhất, việc xác định một tác phẩm đã được công bố có nghĩa xác định thời điểm công bố tác phẩm đó. Thời điểm này có ý nghĩa quan trọng trong việc làm căn cứ tính thời hạn bảo hộ của tác phẩm.

Thứ hai, việc xác định tác phẩm đã được công bố xác định giới hạn lãnh thổ mà tác phẩm được bảo hộ bởi lẽ phạm vi bảo hộ quyền tác giả mang tính lãnh thổ.

Thứ ba, việc xác định tác phẩm đã được công bố xác định giới hạn quyền tác giả và quyền liên quan. Giới hạn bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan chính là các trường hợp sử dụng tác phẩm không cần xin phép, không cần trả tiền nhuận bút, thù lao được quy định tại Điều 25 và Điều 32 Luật Sở hữu trí tuệ 2022. Chỉ những tác phẩm “đã được công bố” mới có thể được áp dụng hai điều luật này.

Lao động nghiên cứu, sáng tạo là công cụ và sản phẩm của một môi trường văn hóa mà bất cứ hành vi phản văn hóa nào xảy ra trong môi trường văn hóa ấy đều bị phản đối. Do đó, để bảo vệ quyền lợi của tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả tốt nhất, những người sáng tạo nên đăng ký bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan cho tác phẩm của mình.

Trên đây là bài viết “Hiểu như nào là đúng về công bố tác phẩm”. Chúng tôi hi vọng bài viết này có ích với các bạn.

Trân trọng,

Một số lưu ý về bảo hộ quyền tác giả đối với chương trình máy tính

Chương trình máy tính là một đối tượng được bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, việc bảo hộ quyền tác giả như một tác phẩm văn học đối với chương trình máy tính theo pháp luật Việt Nam còn tồn tại những hạn chế, thách thức nhất định, không đạt được hiệu quả bảo hộ tối ưu. Để hiểu hơn về những điểm hạn chế về bảo hộ quyền tác giả đối với chương trình máy tính, bài viết xin đưa ra một số lưu ý về bảo hộ quyền tác giả đối với chương trình máy tính dưới góc độ thực tiễn sau đây.

1. Tính toàn vẹn của chương trình máy tính

Khoản 4 Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam quy định: “Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc; không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả”. Đề giải thích rõ hơn về quy định trên, Khoản 3 Điều 20 Nghị định 22/2018/NĐ-CP đã nêu rõ: “Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén tác phẩm quy định tại khoản 4 Điều 19 của Luật sở hữu trí tuệ là việc không cho người khác sửa chữa, cắt xén tác phẩm hoặc sửa chữa, nâng cấp chương trình máy tính trừ trường hợp có thoả thuận của tác giả”. Mặc dù quy định nêu trên giúp đảm bảo quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm nói chung, tuy nhiên đối với chương trình máy tính, việc áp dụng quy định này không đạt được hiệu quả như mong muốn bởi những lí do dưới đây.

Thứ nhất, chương trình máy tính có thể được thường xuyên cập nhật. Khác với các đối tượng được bảo hộ quyền tác giả khác, chương trình máy tính được ứng dụng rộng rãi trong quá trình sản xuất, làm việc của con người nên thường xuyên được cải tiến, nâng cấp với chu kỳ ngắn, trong vòng vài tháng hoặc một năm một lần. Bên cạnh đó, chương trình máy tính thường được tạo ra bởi nhóm lập trình viên, số lượng có thể từ vài người cho đến cả trăm người. Trong quá trình xây dựng, sáng tạo nên chương trình máy tính lẫn quá trình cập nhật phiên bản mới của chương trình máy tính, những người trực tiếp sửa chữa, thay đổi, sáng tạo những chức năng của chương trình máy tính có thể có sự thay đổi, không phải là những người ban đầu. Khi đó, nếu muốn thay đổi, nâng cấp chương trình, chủ sở hữu quyền tác giả phải có được sự đồng ý của tất cả đồng tác giả, gây nên sự phiền phức và rắc rối không nhỏ.

Thứ hai, có thể thấy rằng trong trường hợp tác giả (lập trình viên) không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả (nhà sản xuất chương trình máy tính), thì chủ sở hữu quyền tác giả sẽ bị hạn chế sự tự do thay đổi, cải tiến, nâng cấp chương trình máy tính để đưa ra thị trường. Các tác giả có thể sử dụng quyền bảo vệ toàn vẹn tác phẩm để ngăn cản chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện nâng cấp chương trình máy tính, ngăn cản những lập trình viên khác gia nhập thực hiện công việc chỉnh sửa, cải tiến chương trình máy tính. Trong khi đó, thông thường các lập trình viên làm việc theo hợp đồng lao động với nhà sản xuất chương trình máy tính, việc thay đổi người để chỉnh sửa, nâng cấp chương trình là sự thay đổi tất nhiên. Trên thực tế, trong thời đại công nghệ thay đổi nhanh chóng hiện nay, quy định này đã làm mất đi tính chủ động cũng như ưu thế tiên phong trên thị trường của chủ sở hữu quyền tác giả.

Quyền bảo vệ toàn vẹn tác phẩm là quyền nhân thân và không thể chuyển giao, tuy nhiên đối với đặc điểm kỹ thuật của chương trình máy tính, quy định của pháp luật Việt Nam như trên vẫn chưa đạt được sự hợp lý và hiệu quả thực tiễn.

2. Nội dung và dữ liệu đi kèm chương trình máy tính không được bảo hộ cùng với chương trình máy tính

Nội dung và dữ liệu của chương trình máy tính sẽ không được tự động bảo hộ đồng thời với việc bảo hộ chương trình máy tính. Trong trường hợp chương trình máy tính có bảo gồm dữ liệu, ví dụ như các nền tảng chỉnh sửa hình ảnh có sẵn những hình minh họa hoặc các họa tiết, hình họa để thêm vào hình ảnh của người sử dụng, hoặc các nền tảng đọc sách có chứa văn bản sách viết hoặc băn ghi sách nói,…thì chỉ bản thân chương trình máy tính đó được bảo hộ (mã nguồn hoặc mã máy) mà không bao gồm những dữ liệu đi kèm.

Như vậy, trường hợp tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả có nhu cầu bảo hộ chương trình máy tính kèm theo nội dung dữ liệu thì ngoài việc đăng ký bảo hộ chương trình máy tính, tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả cần phải đăng ký quyền tác giả đối với nội dung và dữ liệu đi kèm dưới hình thức phù hợp.

3. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả đối với chương trình máy tính

Thời hạn bảo hộ của chương trình máy tính không được quy định riêng mà nằm trong quy định chung tại Điểm b Khoản 2 Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ. Theo đó, chương trình máy tính có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết.

Xét thấy tình hình thực tiễn thay đổi nhanh chóng của công nghệ thông tin, việc quy định thời hạn bảo hộ như trên đối với chương trình máy tính là quá dài, không thực tế so với vòng đời sản phẩm chương trình máy tính. Quy định này có thể là rào cản cho sự sáng tạo, hạn chế sự cạnh tranh của những sản phẩm công nghệ.

4. Phạm vi bảo hộ quyền tác giả đối với chương trình máy tính

Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy định bảo hộ chương trình máy tính dưới dạng mã nguồn và mã máy. Việc quy định này mang tính khái quát cao song lại chưa có những quy định chi tiết, cụ thể hơn về việc bảo hộ các yếu tố bên trong một chương trình máy tính, cụ thể là cấu trúc của chương trình. Mặc dù trong quá trình xây dựng, cấu trúc cũng có thể thay đổi, tuy nhiên có những phần trong chương trình phản ánh cách tư duy sáng tạo cũng như thói quen sử dụng, mang dấu ấn riêng của tác giả, ví dụ như cách tổ chức, trình sự sắp xếp, menu lệnh, giao diện,… Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam cũng chưa có sự phân loại chương trình máy tính thành các loại có chức năng, mục tiêu khác biệt nhau như hệ điều hành, phần mềm lập trình, phần mềm ứng dụng.

Trên đây là nội dung bài viết “Một số lưu ý về bảo hộ quyền tác giả đối với chương trình máy tính”. Bản Quyền Việt Nam hy vọng bài viết này có ích với bạn đọc.

Trân trọng.